- Vụ Trương Trần Văn Nhân (cùng đồng bọn), phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đã xét xử sơ thẩm, Viện phúc thẩm 3 nghiên cứu hồ sơđể tham gia xét xử phúc thẩm phát hiện: Trong biên bản nghị án chỉ thảo luận và biểu quết về tội danh, điều luật và mức hình phạt áp dụng đối với các bị cáo, còn các vấn đề khác không được thể hiện trong biên bản nghị án, nhưng khi ban hành bản án trong phần quyết định lại ghi đầy đủ về tội danh, hình phạt và tịch thu tiêu hủy vật chứng, tịch thu tiền xung công quỹ Nhà nước và buộc bị cáo nộp tiền thu lời bất chính để xung công quỹ nhà nước...
CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT CÁC HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP
Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm VKSND tối cao tại Tp Hồ Chí Minh (Viện phúc thẩm 3) có Thông báo số 693/TB-VKSTC- PT3 ngày 18/11/2010 rút kinh nghiệm về một số vụ án có vi phạm với nội dung:
- Vụ Trương Trần Văn Nhân (cùng đồng bọn), phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đã xét xử sơ thẩm, Viện phúc thẩm 3 nghiên cứu hồ sơ để tham gia xét xử phúc thẩm phát hiện: Trong biên bản nghị án chỉ thảo luận và biểu quết về tội danh, điều luật và mức hình phạt áp dụng đối với các bị cáo, còn các vấn đề khác không được thể hiện trong biên bản nghị án, nhưng khi ban hành bản án trong phần quyết định lại ghi đầy đủ về tội danh, hình phạt và tịch thu tiêu hủy vật chứng, tịch thu tiền xung công quỹ Nhà nước và buộc bị cáo nộp tiền thu lời bất chính để xung công quỹ nhà nước.
- Vụ Hoàng Hải (cùng đồng bọn 15 bị cáo), phạm tội “Mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy”. Vụ án đã xét xử sơ thẩm, trong biên bản nghị án chỉ thảo luận và biểu quyết về tội danh, mức hình phạt áp dụng đối với các bị cáo, riêng về điều luật áp dụng chỉ nghị án một số bị cáo, cụ thể: áp dụng điểm b,m,p; khoản 2 Điều 199 và khoản 1, Điều 194 (đối với các bị cáo Nguyễn Vĩnh Thanh, Lê thị Hiền, Trương Văn Luyện); điểm g, khoản 1, Điều 48 (bị cáo Trương Văn Luyện); điểm p, khoản 2 (bị cáo Hoàng Hải). Điều 46, Điều 51 (bị cáo Bùi Mỹ Phương) Bộ luật hình sự 1999, áp dụng khoản 5, điều 194 BLHS 1999. Còn các bị cáo khác (10/15 bị cáo) không được bàn và biểu quyết áp dụng theo điểm , khoản, điều luật nào của Bộ luật hình sự đối với từng bị cáo trong biên bản nghị án, chỉ thảo luận biểu quyết mức hình phạt và các vấn đề khác, nhưng ban hành bản án trong phần quyết định lại ghi đầy đủ về tội danh, điều luật áp dụng.
- Vụ Nguyễn Ngọc Nguyên, phạm tội “Giết người”. Trong biên bản nghị án chỉ thảo luận và biểu quyết về tội danh, nhưng không thể hiện mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo, mà chỉ thể hiện thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 22/12/2009 và biểu quyết các vấn đề khác, khi ban hành bản án trong phần quyết định phạt bị cáo Nguyễn Ngọc Nguyên, 08 (tám) năm tù.
Như vậy, các vụ án trên đã vi phạm nghiêm trọng quy định tại mục IV Nghị quyết số 04/2004/NQ- HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Điều 199 và Điều 222 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Nhằm thực hiện tốt Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, kiểm sát biên bản phiên tòa, bản án, quyết định của Tòa án, phát hiện vi phạm về thủ tục tố tụng kịp thời kháng nghị, kiến nghị, nhằm hạn chế án phúc thẩm bị hủy bỏ do các vi phạm nêu trên, Viện kiểm sát địa phương cần kiểm sát chặt chẽ và thực hiện tốt quy định của pháp luật.
Thu Hương.