Thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong lĩnh vực thi hành án hình sự, ngày 22/6/2010 VKSND huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình đã ban hành Kiến nghị số 01 gửi Chánh án Toà án nhân huyện Kiến Xương đề nghị khắc phục một số thiếu sót, vi phạm trong công tác thi hành án hình sự như:...
Kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân các cấp
trong thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp
1. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình
Thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong lĩnh vực thi hành án hình sự, ngày 22/6/2010 VKSND huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình đã ban hành Kiến nghị số 01 gửi Chánh án Toà án nhân huyện Kiến Xương đề nghị khắc phục một số thiếu sót, vi phạm trong công tác thi hành án hình sự như:
Toà án ra quyết định thi hành án chậm 02 trường hợp, một trường hợp chậm 04 ngày và 01 trường hợp chậm 18 ngày so với quy định tại khoản 1 Điều 256 Bộ luật tố tụng hình sự.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương kiến nghị ông Chánh án TAND huyện Kiến Xương có biện pháp kiểm tra, chỉđạo chấn chỉnh, không để xảy ra tồn tại như trên.
2. Viện kiểm sát nhân dân thành phốĐà Nẵng
* Kiến nghị số 134/KN-VKS-P2, ngày 06/7/2010 của Viện kiểm sát nhân thành phốĐà Nẵng gửi Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an TP. Đà Nẵng. Nội dung:
Ngày 30/6/2010, Viện kiểm sát nhân dân thành phốĐà Nẵng nhận được hồ sơ vụ án và văn bản đề nghị phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, phê chuẩn lệnh bắt bi can để t?m giam của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an TP. Đà Nẵng đối với 04 bị can trong vụ án Phạm Thế Phúc cùng đồng bọn phạm tội “Bắt giữ người trái pháp luật”.
Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an TP. Đà Nẵng tiếp nhận tin báo tố giác tội phạm của nạn nhân Trịnh Quang Phước ngày 24/3/2010, sau đó lấy lời khai nhân chứng và các đối tượng có liên quan. Các đối tượng khai nhận phù hợp với lời trình bày của nạn nhân và các nhân chứng, đủ cơ sởđể khởi tố vụ án hình sự , nhưng đến ngày 28/6/2010, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an TP. Đà Nẵng mới ra quyết định khởi tố vụ án hình sự là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng về thời hạn điều tra, giải quyết tin báo, tố giác tội phạm được quy định tại Điều 103 Bộ luật tố tụng hình sự.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phốĐà Nẵng kiến nghị Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an TP. Đà Nẵng quan tâm chỉđạo, tăng cường công tác quản lý, khắc phục những vi phạm trong việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm theo đúng quy định của pháp luật và trả lời bằng văn bản cho Viện kiểm sát nhân dân TP. Đà Nẵng biết.
* Qua công tác kiểm sát Quyết định thi hành án phạt tù của Chánh án TAND thành phốĐà Nẵng, Viện kiểm sát nhân thành phốĐà Nẵng phát hiện những sai sót và ban hành Kiến nghị số 142/KN-VKS-P10, ngày 18/8/2010. Nội dung:
- Tại trích lục bản án hình sự kèm theo các Quyết định thi hành án phạt tù số 24/2010/QĐ- CA ngày 11/06/2010; số 29, 30, 31, 32 /2010/QĐ- CA ngày 09/8/2010 của Chánh án Tòa án nhân dân thành phốĐà Nẵng ghi không chính xác (phần trên thì căn cứ vào Bản án hình sự phúc thẩm của Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại Đà Nẵng nhưng phần dưới lại ghi TAND thành phốĐà Nẵng đã quyết định…). Nếu chính xác, trích lục phải ghi: Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại Đà Nẵng đã quyết định.
- Tại trích lục bản án hình sự kèm theo quyết định thi hành án phạt tù số 102/2009/QĐ- CA ngày 03/12/2009 ghi “xử phạt Trần Đức Trụ 12 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản””, nhưng trên thực tế Trần Đức Trụ bị xử về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án hình sự phúc thẩm số 42/2009/HSPT ngày 23/11/2009 của Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại Đà Nẵng).
- Tại trích lục án hình sự kèm theo quyết định thi hành án phạt tù số 93/2009/QĐ- CA ngày 03/12/2009 phần trên ghi “đối với người bị kết án Nguyễn Văn Lâm (Đen tài lọt)”, nhưng phần Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại Đà Nẵng đã quyết định lại ghi “Nguyễn Văn Đen (Đen tài lọt)”. Thực tế tên bị cáo theo bản án hình sự phúc thẩm số 46/2009/HSPT ngày 24/11/2009 của Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại Đà Nẵng là Nguyễn Văn Lâm.
Những sai sót trên đã vi phạm Điều 256 Bộ luật tố tụng hình sự và gây khó khăn cho công tác thi hành án.
Kiến nghị yêu cầu Chánh án cho kiểm tra, đính chính lại những sai sót, rút kinh nghiệm để tránh xảy ra sai sót tương tự, đồng thời trả lời cho Viện kiểm sát TP. Đà Nẵng biết kết quả trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị.
3.Viện Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm tại Đà Nẵng (Viện phúc thẩm 2)
Ngày 12/7/2010, Viện phúc thẩm 2 ban hành văn bản số 341/KN-VPT2 kiến nghịđến ông Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên có biện pháp chỉđạo rút kinh nghiệm và khắc phục vi phạm nhằm đảm bảo việc xét xử dúng pháp luật. Nội dung:
Qua công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử bản án hình sự sơ thẩm số 16 ngày 07/4/2009 của TAND tỉnh Phú Yên, xử bị cáo Đoàn Văn Cường 03 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự, Viện phúc thẩm 2 nhận thấy:
Đoàn Văn Cường (tức Đẩu Em) khai sinh ngày 20/02/1991 chứ không phải sinh năm 1990. Lời khai này phù hợp với Giấy chứng minh nhân dân do Công an Phú Yên cấp cho Đoàn Văn Cường ngày 02/5/2007, lời khai của mẹđẻ bị cáo và một số giấy tờ khác có trong hồ sơ vụ án. Nhưng tại bản án sơ thẩm Tòa án lại xác định bị cáo làĐoàn Văn Cương, sinh ngày 20/02/1990 là không phù hợp quy định tại điểm d khoản 3 Điều 155; Điều 126 Bộ luật tố tụng hình sự , Thông tư liên ngành số 03/TTLN ngày 20/6/1992 của TANDTC-VKSNDTC- Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an), hướng dẫn thực hiện một số quy định về lý lịch của bị can, bị cáo.
Tên và năm sinh của người ghi trong lý lịch bị can cũng như trong cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa cấp sơ thẩm đã xét xử là không đúng với tên và năm sinh của người mà cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Phú Yên khởi tố, bắt tạm giam vàđề nghị truy tố.
4. Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm tại Tp. Hồ Chí Minh (Viện phúc thẩm 3)
Ngày 30/6/2010, Viện Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm tại TP. Hồ Chí Minh đã ban hành văn bản số 387/2010/KN-VPT3gửi Chánh án Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị khắc phục vi phạm về thời hạn gửi 02 hồ sơ giải quyết án kinh doanh thương mại có kháng cáo, kháng nghị, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và việc thực hiện chức năng của cơ quan tiến hành tố tụng.
* Vụ kiện “Tranh chấp thành viên công ty” giữa
- Nguyên đơn:
1. Bà Hứa Huệ Phương, sinh năm 1959
Địa chỉ: số 61/9A, Xô Viết Nghệ Tĩnh, phường 21, quận Bình Thạnh, TP Hồ Chí Minh.
2. Ông Nguyễn Duy Kinh, sinh năm 1957
Địa chỉ: 21/8/44, Lê Công Phép, phường An Lạc, quận Tân Bình TP. Hồ Chí Minh.
- Bịđơn: Công ty THHH Dược phẩm Bình Nguyên
Địa chỉ: số 13, Hồ Biểu Chánh, phường 12, quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh
Căn cứ vào ngày xét xử sơ thẩm (22/01/2010) đến ngày Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh gửi hồ sơ (24/6/2010) là 294 ngày.
* Vụ kiện “Tranh chấp thành viên công ty” giữa
- Nguyên đơn:
1. Ông Trần Hòa Hân, sinh năm 1958
2. Bà Văn Thị nga, sinh năm 1952
Địa chỉ: 91/6C Hòa hưng, phường 12, quận 10, TP. Hồ Chí Minh.
- Bịđơn: Bà Nguyễn Thị Chín, sinh năm 1960.
Địa chỉ: D7/14A ấp 4, xã Tân Túc, huyện Bình Chánh, TP. Hồ Chí Minh.
Căn cứ vào ngày xét xử sơ thẩm (22/01/2010) đến ngàyTAND thành phố Hồ Chí Minh gửi hồ sơ (24/6/2010) là 144 ngày.
Như vậy, việc chuyển hồ sơ có kháng cáo, kháng nghị của TAND thành phố Hồ Chí Minh vi phạm Điều 255 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tổng hợp: Thanh Tâm