Qua công tác kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án và nghiên cứu hồ sơ có kháng cáo, kháng nghị, Viện Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm tại Đà Nẵng (Viện phúc thẩm 2 thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao) ban hành văn bản gửi Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa ban hành văn bản gửi Chánh án Toà án nhân dân huyện Thọ Xuân để khắc phục vi phạm trong công tác giải quyết các vụ việc dân sự, kinh doanh thương mại. Website Viện kiểm sát nhân dân tối cao trích đăng nội dung kiến nghị trên để bạn đọc tham khảo
1.Kiến nghị số 113, ngày 11/3/2011 của Viện phúc thẩm 2 gửi Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai khắc phục các vi phạm trong quá trình giải quyết vụ án kinh doanh thương mại “Kiện vi phạm hợp đồng tín dụng” giữa nguyên đơn là Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, chi nhánh Trà Bá, tỉnh Gia Lai và bịđơn là bà Nguyễn Thị Châu; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Lâm Bảo Toàn và bà Nguyễn Thị Tuyết Vân. Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, ông Lâm Bảo Toàn và bà Nguyễn Thị Tuyết Vân (người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) đã được tống đạt giấy triệu tập hợp lệđến lần thứ hai vẫn vắng mặt không có lý do, nên ngày 06/10/2010,...
KIẾN NGHỊ KHẮC PHỤC VI PHẠM TRONG CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ, VIỆC DÂN SỰ, KINH DOANH THƯƠNG MẠI...
Qua công tác kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án và nghiên cứu hồ sơ có kháng cáo, kháng nghị, Viện Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm tại Đà Nẵng (Viện phúc thẩm 2 thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao) ban hành văn bản gửi Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa ban hành văn bản gửi Chánh án Toà án nhân dân huyện Thọ Xuân để khắc phục vi phạm trong công tác giải quyết các vụ việc dân sự, kinh doanh thương mại. Website Viện kiểm sát nhân dân tối cao trích đăng nội dung kiến nghị trên để bạn đọc tham khảo
1. Kiến nghị số 113, ngày 11/3/2011 của Viện phúc thẩm 2 gửi Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai khắc phục các vi phạm trong quá trình giải quyết vụ án kinh doanh thương mại “Kiện vi phạm hợp đồng tín dụng” giữa nguyên đơn là Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, chi nhánh Trà Bá, tỉnh Gia Lai và bịđơn là bà Nguyễn Thị Châu; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Lâm Bảo Toàn và bà Nguyễn Thị Tuyết Vân.
Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, ông Lâm Bảo Toàn và bà Nguyễn Thị Tuyết Vân (người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) đã được tống đạt giấy triệu tập hợp lệđến lần thứ hai vẫn vắng mặt không có lý do, nên ngày 06/10/2010, Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai lập biên bản về việc không tiến hành hòa giải được. Tuy nhiên, tại thời điểm lập biên bản có đại diện nguyên đơn và bịđơn là bà Nguyễn Thị Châu, nhưng biên bản không có chữ ký của bà Châu. Việc thẩm phán không yêu cầu bà Nguyễn Thị Châu ký vào biên bản hòa giải là vi phạm quy định tại Khoản 2, Điều 186 Bộ luật tố tụng dân sự “Biên bản hòa giải phải có đầy đủ chữ ký hoặc điểm chỉ của các đương sự có mặt trong phiên hòa giải...”
2. Kiến nghị số số 05 ngày 5/3/2011 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa gửi Chánh án Tòa án nhân dân huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa khắc phục vi phạm:
Áp dụngcăn cứ pháp luật không chính xác: Quyết định công nhận thỏa thuận số 02, ngày 19/01/2011, Tòa án nhân dân huyện Thọ Xuân áp dụng căn cứ pháp luật tại Khoản 4, Điều 131 Bộ luật tố tụng dân sự là không chính xác. Đây là vụ án “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” mà các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án trước khi mở phiên tòa, vì vậy, tòa án nhân dân huyện Thọ Xuân phải căn cứ vào Khoản 1, Điều 131 để tính án phí và Khoản 2, Điều 305 Bộ luật dân sự về trách nhiệm dân sự do chậm thực hiện nghĩa vụ mới đầy đủ và đúng quy định của pháp luật.
Quyết định số 05/2011/QĐST-HNGĐ, ngày 28/01/2011 của Tòa án nhân dân huyện Thọ Xuân chỉ căn cứ vào các Điều 90, 92, 94 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 để công nhận thuận tình ly hôn, việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau ly hôn và quyền thăm nom con sau ly hôn, nhưng không nêu căn cứ áp dụng pháp luật về nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm tại Khoản 4, Điều 131 Bộ luật tố tụng dân sự là chưa đầy đủ. Đồng thời quyết định ghi nhận công nợ giữa nguyên đơn và bị đơn nhưng không nêu căn cứ áp dụng pháp luật về trách nhiệm dân sự do chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự tại Khoản 2, Điều 305 Bộ luật dân sự.
Một số quyết định chỉ nêu căn cứđể ra quyết định công nhận thỏa thuận, án phí, trách nhiệm chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự nhưng không nêu các Điều 471 (Nghĩa vụ trả nợ của bên vay), 474 (Thựchiện hợp đồng vay không thời hạn), 476 (Hợp đồng thuê tài sản) làm căn cứ giải quyết vụ án là không đầy đủ (Quyết định số 05 và 06, ngày 08/3/2011 và Quyết định số 02 ngày 19/01/2011).
Về án phí: Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 02/2011/QĐST- DS, ngày 19/01/2011, Tòa án nhân dân huyện Thọ Xuân đã quyết định chị Tuệ phải trả cho chị Thúy số tiền là 145.922.000đ, hai bên thỏa thuận chị Thúy chịu toàn bộ án phí là 3.648.000đ, nhưng Quyết định của Tòa án nhân dân huyện yêu cầu chị Thúy chỉ phải nộp 3.500.000đ là không chính xác.
Tổng hợp: Thanh Tâm