Qua công tác kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân Thanh Hóa, Gia Lai đã ban hành văn bản gửi Chánh án Toà án nhân dân một số huyện, thành phố thuộc tỉnh để khắc phục vi phạm trong công tác giải quyết các vụ việc dân sự. Website Viện kiểm sát nhân dân tối cao trích đăng nội dung kiến nghị trên để bạn đọc tham khảo
* Kiến nghị số số 01 ngày 9/12/2010 và số 03 ngày 16/12/2010 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa gửi Chánh án Tòa án nhân dân huyện Đông Sơn, Yên Định, tỉnh Thanh Hóa khắc phục vi phạm:
- Áp dụngcăn cứ pháp luật chưa đầy đủ (Bản án số 04/2010/DS- ST, ngày 16/9/2010 của Tòa án nhân dân huyện Đông Sơn giải quyết vụ kiện “Yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe” nhưng không nêu căn cứ áp dụng tại khoản 6, Điều 11, Điều 15, Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án)...
Kiến nghị khắc phục vi phạm
trong công tác giải quyết các vụ, việc dân sự
Qua công tác kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân Thanh Hóa, Gia Lai đã ban hành văn bản gửi Chánh án Toà án nhân dân một số huyện, thành phố thuộc tỉnh để khắc phục vi phạm trong công tác giải quyết các vụ việc dân sự. Website Viện kiểm sát nhân dân tối cao trích đăng nội dung kiến nghị trên để bạn đọc tham khảo
* Kiến nghị số số 01 ngày 9/12/2010 và số 03 ngày 16/12/2010 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa gửi Chánh án Tòa án nhân dân huyện Đông Sơn, Yên Định, tỉnh Thanh Hóa khắc phục vi phạm:
- Áp dụngcăn cứ pháp luật chưa đầy đủ (Bản án số 04/2010/DS- ST, ngày 16/9/2010 của Tòa án nhân dân huyện Đông Sơn giải quyết vụ kiện “Yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe” nhưng không nêu căn cứ áp dụng tại khoản 6, Điều 11, Điều 15, Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án).
- Viện dẫn căn cứ áp dụng pháp luật chưa chính xác (Quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án số 04/2010/QĐST- DS, ngày 16/11/2010 của Tòa án nhân dân huyện Đông Sơn nêu căn cứ áp dụng pháp luật điểm c, đ, khoản 1, 4, Điều 193 Bộ luật tố tụng dân sự không chính xác vì khoản 1, Điều 193 Bộ luật tố tụng dân sự có điểm c, đ).
- Chưa thực hiện việc ghi trích yếu theo mẫu bản án sơ thẩm hướng dẫn tại Mục 2, Phần I, Nghị quyết số 01/2005/NQ- HĐTP, ngày 31/3/2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (Bản án số 05/2010/DSST, ngày 28/7/2010 và Bản án số 08/2010/DSST ngày 28/9/2010 của Tòa án nhân dân huyện Yên Định, giải quyết “Yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe”; Bản án số 54/2010/HNGĐ, ngày 28/10/2010 của Tòa án nhân dân huyện Yên Định, giải quyết “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”).
- Một số quyết định đình chỉ vụ án chỉ nêu lý do đình chỉ, chưa viện dẫn điều luật (căn cứ của việc đình chỉ) thực hiện chưa đúng mẫu số 11a, ban hành kèm theo Nghị quyết số 02/2006/NQ- HĐTP, ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: Bản án số 54/2010/HNGĐ ngày 28/10/2010 của Tòa án nhân dân huyện Yên Định giải quyết “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” phần quyết định của Bản án, Tòa án không nêu căn cứ áp dụng pháp luật tại Khoản 2, Điều 305 về trách nhiệm dân sự do chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự là thiếu sót; Bản án số 08/2010/DSST, ngày 28/9/2010 của Tòa án nhân dân huyện Yên Định giải quyết vụ kiện “Yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe” nhưng Tòa án lại áp dụng căn cứ pháp luật tại Khoản 4, Điều 27 Pháp lệnh về án phí, lệ phí Tòa án là không chính xác, phải áp dụng căn cứ pháp luật tại Khoản 6, Điều 11; Điều 15, Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án mới đúng quy định của pháp luật;
* Kiến nghị số 01, ngày 20/12/2010 gửi Chánh án Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai khắc phục các vi phạm như:
- Áp dụng điều luật không rõ ràng: có 05 quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án chỉ căn cứ vào Điều 192, 193, 194 Bộ luật tố tụng dân sự mà không căn cứđiểm, khoản nào của điều luật (Quyết định đình chỉ số 62/2010/QĐST- HNGĐ ngày 29/7/2010, giải quyết vụ kiện hôn nhân và gia đình giữa chị Phạm Thị Thùy Trang với anh Châu Hoàng Khanh; Quyết định đình chỉ số 64/2010/QĐST-DS ngày 12/8/2010, giải quyết vụ kiện yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn Lê Thị Huệ với bịđơn Tạ Công Huy...).
- Nêu lý do đểđình chỉ, tạm đình chỉ vụ án không phù hợp với quy định tại Điều 189, 192 Bộ luật tố tụng dân sự (Quyết định đình chỉ số 63/2010/QĐST-DS ngày 12/8/2010, giải quyết vụ kiện tranh chấp quyền sử dụng đất giữa bà Trần Thị Hường và bà Lê Thị Thu Dung, căn cứ vào khoản 2, Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sựđểđình chỉ với lý do “ Việc hòa giải cơ sở chưa đúng thành phần được quy định tại khoản 2, Điều 135 của Luật đất đai 2003” là không đúng quy định của pháp luật...).
- Một số quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự không thể hiện việc hòa giải về phần án phí mà buộc một bên đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trái với Khoản 3, Điều 131 Bộ luật tố tụng dân sự và khoản 11, Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án (các quyết định công nhận thỏa thuận của các đương sự số 21/2010/QĐST-KDTM ngày 16/8/2010; số 135/2010/QĐST-DS ngày 13/8/2010; số 137/2010/QĐST-DS ngày 16/8/2010; số 138/2010/QĐST - DS ngày 16/8/2010;số 147/2010/QĐST-DS ngày 31/8/2010; số 146/2010/QĐST-DS ngày 30/8/2010).
- Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu nguyên đơn nộp tiền tạm ứng án phí vượt quá quy định tại Khoản 4, Điều 25 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án (Quyết định số 127/2010/QĐST- DS ngày 04/8/2010, giải quyết vụ kiện đòi nợ giữa nguyên đơn Nguyễn Thị Lan Thi và bịđơn Nguyễn Thị Vân, Nguyễn Minh Tiến. Số tiền bị đơn nợ nguyên đơn là 50.000.000đ, lẽ ra nguyên đơn chỉ phải nộp tiền tạm ứng án phí là 1.250.000đ, nhưng cấp sơ thẩm lại buộc nguyên đơn phải nộp số tiền tạm ứng án phí là 18.000.000đ, vượt quá quy định của pháp luật số tiền 16.750.000đ; Quyết định số 150/2010/QĐST- DS ngày 03/9/2010, giải quyết vụ kiện đòi nợ giữa nguyên đơn Nguyễn Thị Ngọc Thu và bịđơn Bùi Thị Thùy Linh. Số tiền bịđơn phải trừ nợ cho nguyên đơn là 50.000.000đ, nhưng cấp sơ thẩm lại buộc nguyên đơn phải nộp số tiền tạm ứng án phí là 12.550.000đ, là vượt quá so với quy định của pháp luật số tiền 11.300.000đ).
- Một số bản án tính án phí không đúng với quy định tại khoản 2, Điều 131 của Bộ luật tố tụng dân sự, gây thiệt hại cho các đương sự (Bản án số 56/2010/HNGĐ-ST ngày 24/9/2010, giải quyết vụ kiện“ Yêu cầu xin ly hôn” giữa nguyên đơn Võ Thị Thu Hiền với bịđơn Võ Ngọc Ngãi. Tài sản mỗi bên được hưởng 118.224.820đ và phải chịu án phí chia tài sản 5.911.241đ, nhưng án sơ thẩm buộc mỗi người phải chịu 6.411.241đ; Bản án số 98/2010/DSST, ngày 27/8/2010 giải quyết vụ kiện“Tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản ” giữa nguyên đơn Hồ Thị Thu Dung và bịđơn Nguyễn Thị Hương. Vụ án thụ lý ngày 12/8/2008, án sơ thẩm buộc bịđơn trả cho nguyên đơn 102.034.500đ (vượt quá 100.000.000đ), nhưng án phí vẫn nhân 5% tổng giá trị tài sản là không đúng quy định của pháp luật).
Ngoài ra, Tòa án nhân dân thành phố Pleiku trong quá trình giải quyết các vụ, việc dân sự còn có một số vi phạm khác như: giải quyết vụ kiện tranh chấp hôn nhân và gia đình có con trên 9 tuổi, nhưng không thể hiện việc Tòa án đã hỏi nguyện vọng của các cháu ở với ai là vi phạm khoản 2, Điều 92 Luật hôn nhân và gia đình; không tuyên lãi chậm trả trong quá trình thi hành án đối với khoản tiền cấp dưỡng nuôi con theo khoản 2, Điều 305 Bộ luật dân sự, ảnh hưởng đến quyền lợi của bên được thi hành án; Vụ án có thế chấp tài sản liên quan đến người thứ 3 nhưng khi giải quyết không đưa họ vào thạm gia tố tụng với tư cách người có quyền và nghĩa vụ liên quan theo khoản 4, Điều 56 Bộ luật tố tụng dân sự.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh Thanh Hóa, Gia Lai có kiến nghị yêu cầu Chánh án Tòa án nhân dân các huyện, thành phố thuộc tỉnh kiểm tra, rút kinh nghiệm, có biện pháp khắc phục những thiếu sót nêu trên trong công tác giải quyết các vụ, việc dân sự.
Tổng hợp: Thanh Tâm