CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

The Supreme People’s Procuracy of Viet Nam

Kỹ năng phát hiện vi phạm để nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm án dân sự

04/03/2021
Cỡ chữ:   Tương phản
Kháng nghị phúc thẩm dân sự là một trong những quyền năng pháp lý của VKSND được quy định trong tố tụng dân sự, là nhiệm vụ trọng tâm của công tác kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của Ngành, góp phần vào việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân và gia đình của Tòa án theo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo các quyền và lợi ích của Nhà nước, của công dân được tôn trọng và bảo vệ.

1. Quy định về quyền kháng nghị phúc thẩm của VKS

Điều 278 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) 2015 quy định: “Viện trưởng VKS cùng cấp và cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm”

Quy định của BLTTDS về người có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm dân sự là đặc điểm để phân biệt với kháng nghị giám đốc thẩm và tái thẩm dân sự.

Viện trưởng VKSND có quyền kháng nghị phúc thẩm hoặc kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Tuy nhiên, kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm của Viện trưởng VKSND được thực hiện đối với các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và bản án, quyết định đó có sai lầm, vi phạm pháp luật hoặc phát hiện có tình tiết mới. Còn kháng nghị phúc thẩm của Viện trưởng VKSND được áp dụng trong trường hợp bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Cụ thể:

Viện trưởng VKSND tối cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp cao, bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao nhưng không có quyền kháng nghị phúc thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm của TAND cấp huyện, TAND cấp tỉnh chưa có hiệu lực pháp luật.

Viện trưởng VKSND cấp cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ, nhưng có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh.

Viện trưởng VKSND cấp tỉnh chỉ có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh mà không có quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.

Viện trưởng VKSND cấp huyện chỉ có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện mà không có quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.

2. Quy định về thời hạn kháng nghị

- Thời hạn kháng nghị đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm của VKS cùng cấp là 15 ngày, của VKS cấp trên trực tiếp là 1 tháng, kể từ ngày tuyên án. Trường hợp KSV không tham gia phiên tòa thì thời hạn kháng nghị tính từ ngày VKS cùng cấp nhận được bản án (khoản 1 Điều 280 BLTTDS).

- Thời hạn kháng nghị của VKS cùng cấp đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, của VKS cấp trên trực tiếp là 10 ngày, kể từ ngày VKS cùng cấp nhận được quyết định (khoản 2 Điều 280 BLTTDS).

- Thời hạn kháng nghị của VKS cùng cấp đối với quyết định giải quyết việc dân sự là 10 ngày, VKS cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa án ra quyết định (trừ quyết định giải quyết việc dân sự quy định tại khoản 7 Điều 27, khoản 2, khoản 3 Điều 29 BLTTDS) (Điều 371-372 BLTTDS).

Ngoài ra, khoản 3 Điều 280 BLTTDS năm 2015 có quy định hoàn toàn mới về việc VKS phải giải thích với Tòa án khi kháng nghị quá hạn: “Khi Tòa án nhận được quyết định kháng nghị của VKS mà quyết định kháng nghị đó đã quá thời hạn quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu VKS giải thích bằng văn bản và nêu rõ lý do”.

Theo quy định tại Điều 16 Thông tư liên tịch số 02/2016 đã hướng dẫn quy định trên như sau: “Trường hợp tính đến ngày, tháng, năm ghi trên quyết định kháng nghị của VKS mà đã quá thời hạn kháng nghị theo quy định tại các Điều 280, 322, 372, 441, 446, 450 và 461 BLTTDS thì Tòa án cấp sơ thẩm nhận được kháng nghị có văn bản yêu cầu VKS đã kháng nghị giải thích lý do kháng nghị quá hạn. Văn bản giải thích lý do kháng nghị quá hạn của VKS được gửi cho Tòa án trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu”.

Như vậy khác với Luật Tố tụng hành chính (Điều 226), BLTTDS không quy định việc Tòa án xem xét kháng nghị quá hạn. Tuy nhiên với trách nhiệm của cơ quan kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, VKS nên hạn chế thấp nhất việc để xảy ra kháng nghị quá hạn.

3. Một số kỹ năng phát hiện vi phạm để nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm

Qua thực tế công tác kiểm sát bản án, quyết định giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân và gia đình cho thấy, nội dung kháng nghị chủ yếu gồm các dạng vi phạm:

- Bỏ sót người tham gia tố tụng.

- Không thu thập đầy đủ chứng cứ, áp dụng pháp luật không đúng

- Tính lãi suất, án phí không đúng quy định của pháp luật.

- Tuyên quyền kháng cáo không đúng…

Để thực hiện tốt chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, hạn chế những vi phạm, thiếu sót trong giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân và gia đình của Tòa án, với tư cách là một Kiểm sát viên, tôi xin nêu một số kinh nghiệm và những vấn đề Kiểm sát viên phải lưu ý như sau:

3.1 Đối với các trường hợp Kiểm sát viên phải tham gia phiên tòa, phiên họp

Trước hết Kiểm sát viên phải có kỹ năng nghiên cứu hồ sơ để kiểm sát được việc lập hồ sơ của Tòa án.

3.1.1  Về hình thức:

+ Trình tự tố tụng theo thời gian (nộp án phí, thụ lý, tạm đình chỉ, đình chỉ, xét xử) (vì đã có trường hợp án phí nộp sau khi thụ lý vụ án).

+ Việc xác định tư cách những người tham gia tố tụng.

+ Trình tự, thủ tục hòa giải, công khai chứng cứ (ví dụ đối với các vụ án hôn nhân và gia đình liên quan đến người chưa thành niên, trước khi mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự thì phải thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp).

3.1.2 Về nội dung:

Kiểm sát đơn khởi kiện đương sự yêu cầu giải quyết vấn đề gì để xác định thuộc loại án nào, quan hệ pháp luật nào điểu chỉnh. Kiểm tra tính hợp pháp của các chứng cứ đương sự xuất trình. Trình tự thu thập chứng cứ của Tòa án…

Khi nghiên cứu xong hồ sơ, Kiểm sát viên tiến hành lập hồ sơ kiểm sát phải tuân thủ các thao tác nghiệp vụ theo hướng dẫn của Ngành. Cần lưu ý, mỗi loại tranh chấp có đặc điểm khác nhau, nên khi nghiên cứu chúng ta cần lựa chọn phương pháp nghiên cứu, xem xét đánh giá thu thập chứng cứ và áp dụng pháp luật cho phù hợp. Kiểm sát viên cần đặc biệt lưu ý phần nội dung vụ án, nghiên cứu kỹ, toàn diện và trích sao đầy đủ các tài liệu, chứng cứ, lời khai của đương sự để phục vụ cho công tác kiểm sát bản án sau khi tham gia phiên toà. Tránh trường hợp sau khi xét xử phát hiện bản án có vi phạm nhưng việc trích cứu sơ sài hoặc không phô tô những tài liệu, chứng cứ quan trọng gây khó khăn cho công tác kháng nghị.

- Hoạt động của Kiểm sát viên tại phiên tòa, phiên họp: Ngoài việc kiểm sát việc chấp hành pháp luật tố tụng của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, Kiểm sát viên cần lưu ý đến việc bổ sung chứng cứ (nếu có) của đương sự có hợp pháp không, các chứng cứ do các đương sự đưa ra có được xem xét đánh giá đầy đủ, toàn diện và khách quan không; việc áp dụng pháp luật về nội dung có đúng không.

- Sau phiên tòa, phiên họp: Phải kiểm sát việc Tòa án bản án, quyết định cho VKS. Mục đích chủ yếu của công tác kiểm sát bản án, quyết định là phát hiện có vi phạm hay không để ban hành kiến nghị hoặc quyết định kháng nghị nên Kiểm sát viên cần quan tâm đôn đốc Toà án gửi bản án kịp thời, đúng thời hạn luật định cho VKS, đồng thời việc nghiên cứu bản án, quyết định phải được tiến hành nhanh chóng, kịp thời đảm bảo nếu phát hiện vi phạm thì vẫn còn thời hạn để ban hành kháng nghị. Đối với những vụ án VKS có tham gia phiên toà cần kết hợp việc nghiên cứu án văn với nghiên cứu hồ sơ vụ án, đối với những vụ án VKS không tham gia phiên toà nếu phát hiện có dấu hiệu vi phạm cần yêu cầu Toà án chuyển hồ sơ nghiên cứu kịp thời.

3.2. Đối với các trường hợp Kiểm sát viên không tham gia phiên tòa chỉ kiểm sát bản án, quyết định:

 3.2.1 Về hình thức:

Đúng mẫu quy định theo Nghị quyết 01/2017 ngày 13/01/2017 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao ban hành một số biểu mẫu trong tố tụng dân sự.

3.2.2 Về thời hạn gửi:

Việc kháng nghị phúc thẩm của VKS chỉ có thời hạn nhất định nên Kiểm sát viên phải ưu tiên kiểm sát bản án, quyết định giải quyết việc ngay sau khi nhận được để kịp thời kháng nghị nếu có vi phạm. Trong trường hợp Kiểm sát viên không tham gia phiên tòa, khi nhận bản án, quyết định phải lưu ý việc ký nhận vì thời hạn kháng nghị phúc thẩm kể từ ngày nhận được bản án, quyết định.

3.2.3 Về nội dung:

- Kiểm sát số, ngày, tháng thụ lý vụ án, nộp án phí nhằm phát hiện vi phạm về thời hiệu, thời hạn giải quyết vụ án (trên cơ sở ngày đương sự  nộp án phí, Tòa án thụ lý vụ án, ngày Tòa án ra các quyết định, bản án, qua đó đối chiếu với quy định của BLTTDS để xác định Tòa án có vi phạm thời hạn giải quyết không).

- Việc xác định tư cách tham gia tố tụng của các đương sự: thực tiễn cho thấy có nhiều vụ án xác định sai tư cách tham gia tố tụng của đương sự và chủ yếu là bỏ sót người tham gia tố tụng. Ví dụ: Đối với các vụ án liên quan đến việc chuyển nhượng, thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ gia đình nhưng Tòa án không đưa đầy đủ những người trong hộ gia đình hoặc người đang trực tiếp quản lý, sử dụng đất tham gia tố tụng, có trường hợp đất đang được thế chấp tại Ngân hàng để vay vốn. Hay đối với các vụ án tranh chấp về hôn nhân gia đình, trong đó vợ chồng có việc vay nợ (ngân hàng, cá nhân, tổ chức) nhưng Tòa án lại không đưa họ vào tham gia tố tụng... Hoặc có trường hợp Tòa án lại xác định chủ thể tham gia tố tụng không có tư cách pháp nhân (Chi nhánh ngân hàng, Văn phòng đại diện....). Đây là những vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng thường dẫn đến việc Toà án cấp trên huỷ án vì ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

- Phạm vi xét xử của Tòa án: Thông qua việc xem xét nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Thực tế đã xảy ra nhiều trường hợp Toà án giải quyết vụ án vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện của đương sự. Hoặc có trường hợp lại bỏ sót yêu cầu khởi kiện của đương sự, thường xảy ra trong các  tranh chấp hợp đồng vay tài sản, nguyên đơn có yêu cầu xử lý tài sản thế chấp nhưng phần quyết định của bản án không quyết định chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn; hoặc trong vụ án bị đơn có yêu cầu phản tố, bản án có nhận định yêu cầu phản tố của bị đơn không có cơ sở nhưng không quyết định chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn. Ngoài ra trong một số vụ án hôn nhân và gia đình, vợ chồng yêu cầu chia tài sản chung với số lượng lớn, nhiều loại nên quyết định phân chia của Tòa án bỏ sót một số tài sản chung vợ chồng đã kê khai và yêu cầu chia.Vì vậy quá trình nghiên cứu bản án cần xác định chính xác đương sự yêu cầu Tòa án giải quyết những nội dung gì, bị đơn có phản tố, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập không, đã nộp án phí phản tố, tiền tạm ứng án phí đối với yêu cầu độc lập hay chưa từ đó đối chiếu với nội dung phần quyết định của bản án để xác định Tòa án có giải quyết đúng nội dung yêu cầu của đương sự không.

- Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp: Kiểm sát viên cần nắm chắc nội dung vụ án để xác định đúng quan hệ tranh chấp, xác định đúng quan hệ tranh chấp sẽ xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của các đương sự và xác định đúng điều luật cần áp dụng, thời hiệu giải quyết vụ án, đặc biệt là trong những vụ án có hai quan hệ tranh chấp cần xác định đầy đủ quan hệ tranh chấp, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong từng quan hệ. Trong thực tế xảy ra một số trường hợp vụ án có hai quan hệ tranh chấp nhưng phần tiêu đề bản án chỉ xác định một quan hệ tranh chấp hoặc xác định sai quan hệ tranh chấp. Ví dụ: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng nhà đất vô hiệu và yêu cầu chia thừa kế đối với nhà đất đó, Toà án chỉ xác định là vụ án Tranh chấp di sản thừa kế dẫn đến việc xác định sai tư cách tham gia tố tụng của đương sự.

- Kiểm sát việc thu thập chứng cứ và đánh giá chứng cứ của Tòa án: Kiểm sát viên cần nghiên cứu nội dung của bản án, xem xét, đánh giá một cách khách quan, toàn diện toàn bộ nội dung yêu cầu của nguyên đơn, ý kiến của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, yêu cầu phản tố (nếu có) và những tài liệu, chứng cứ Tòa án đã thu thập, đương sự cung cấp; nội dung các văn bản trả lời của các cơ quan chức năng để xác định sự thật khách quan của vụ án. Qua đó, xem xét phần nhận định của bản án có phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án không, nội dung quyết định của bản án có phù hợp với quy định của pháp luật không làm cơ sở cho việc phát hiện những vi phạm, thiếu sót của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án để thực hiện quyền kháng nghị, kiến nghị.

- Kiểm sát phần nhận định và quyết định của bản án có phù hợp với nhau không? Ví dụ bản án nhận định tại phiên toà nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện nhưng phần quyết định không đình chỉ phần yêu đã rút đó, nhận định một trong các yêu cầu khởi kiện của đương sự không có căn cứ nhưng không quyết định không chấp nhận yêu cầu đó của nguyên đơn.  Tòa án áp dụng các căn cứ pháp luật có chính xác không, còn hiệu lực không.

- Kiểm sát việc tuyên án phí, lệ phí và quyền kháng cáo. Vi phạm điển hình như: Việc dân sự nhưng lại tuyên người yêu cầu phải chịu án phí, vụ án nhưng lại tuyên đương sự phải chịu lệ phí; tuyên quyền kháng cáo cho người bị yêu cầu trong các việc yêu cầu tuyên bố mất tích, tuyên bố chết; quyết định tuyên bố một người mất tích, Tòa án lại tuyên quyền kháng cáo cho người bị tuyên bố mất tích là không đúng hay tuyên quyền kháng nghị, kháng cáo đối với quyết định giải quyết việc quy định tại khoản 7 Điều 27, khoản 2, khoản 3 Điều 29 BLTTDS là những trường hợp có hiệu lực pháp luật ngay sau khi ban hành quyết định.

- Đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ, Tòa án có tuyên về hậu quả của việc đình chỉ không, tính án phí có đảm bảo quy định không (ví dụ: Đình chỉ trong trường hợp nguyên đơn được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt thì án phí phải sung công quỹ nhà nước nhưng Tòa án lại tuyên án phí trả lại cho đương sự là vi phạm); tuyên quyền kháng cáo, kháng nghị có đúng không?

Riêng đối với các Quyết định công nhận sự thỏa thuận do có hiệu lực pháp luật ngay nên VKS không có quyền kháng nghị, tuy nhiên cần chú ý việc thỏa thuận của đương sự đã phù hợp qui định của pháp luật chưa; có làm thiệt hại đến quyền lợi của người thứ ba không; việc áp dụng án phí, lệ phí của Tòa án theo quy định của pháp lệnh số 10/2009/PL-UBTVQH12 ngày 27/02/2009 và Nghị quyết 326/NQ- UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội có đúng quy định không để làm căn cứ kiến nghị (ví dụ các đương sự thỏa thuận được việc ly hôn, cấp dưỡng nuôi con nhưng Tòa án tuyên án phí cấp dưỡng nuôi con là 300.000đ, hay đối với các vụ án liên quan đến hợp đồng tín dụng, theo quy định tuyên lãi suất chậm trả phải theo hợp đồng tín dụng nhưng Tòa án lại tuyên theo quy định của khoản 2 Điều 357 BLDS…).

Trên đây là một số kinh nghiệm của cá nhân tôi trong quá trình nghiên cứu, kiểm sát bản án, quyết định để phát hiện vi phạm nhằm nâng cao chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm án dân sự. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp.

Đào Thị Huệ

(vienkiemsathaiphong.gov.vn)
Tìm kiếm