CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

The Supreme People’s Procuracy of Viet Nam

Nâng cao chất lượng phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự

07/01/2021
Cỡ chữ:   Tương phản
Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự là thực hiện kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND theo quy định của Luật Tổ chức VKSND năm 2014 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS). Tại Khoản 4 Điều 27 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định về việc tham gia phiên tòa, phiên họp, phát biểu quan điểm của VKSND về việc giải quyết vụ án, vụ việc theo quy định của pháp luật và tại Điều 262 BLTTDS quy định phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm, trong đó: Phát biểu về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết nội dung vụ án.Việc phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm là rất quan trọng để Hội đồng xét xử xem xét, quyết định trước khi tuyên án và được làm căn cứ để Viện kiểm sát thực hiện quyền kiến nghị, kháng nghị sau phiên toà.

Thực hiện các quy định của BLTTDS, trong thời gian qua Lãnh đạo VKSND hai cấp tỉnh Lạng Sơn đã phân công Kiểm sát viên tham gia phiên tòa sơ thẩm dân sự và tại phiên tòa phát biểu theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 (Thông tư liên tịch số 02) và Mẫu ban hành kèm theo Quyết định số 204/QĐ-VKSTC ngày 01/6/2017 của Viện trưởng VKSND tối cao (Quyết định số 204).

Trên cơ sở Chỉ thị công tác kiểm sát năm 2020 của Viện trưởng VKSND tối cao và Hướng dẫn của Vụ 9, việc nâng cao chất lượng phát biểu của Kiểm sát viên là một trong những nhiệm vụ trọng tâm được xác định trong Kế hoạch, Chương trình công tác kiểm sát của VKSND tỉnh Lạng Sơn, kết quả thực hiện đạt như sau:

Từ ngày 01/12/2019 đến ngày 30/9/2020, Kiểm sát viên của VKSND hai cấp tỉnh Lạng Sơn đã tham gia 220 phiên tòa sơ thẩm dân sự theo luật định, trong đó: Cấp tỉnh 15 vụ, cấp huyện 205 vụ và phát biểu theo đúng chức năng, nhiệm vụ, đúng vị trí, vai trò của Viện kiểm sát. Để phát biểu tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện nghiên cứu hồ sơ vụ án, kiểm sát chặt chẽ quá trình thực hiện tố tụng của Thẩm phán kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu. Qua đó đã kịp thời phát hiện được nhiều vi phạm về thủ tục tố tụng của Tòa án và yêu cầu, kiến nghị, chuẩn bị tốt cho việc xây dựng dự thảo phát biểu tại phiên tòa; Tại phiên tòa, đã kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng của Hội đồng xét xử, Thư ký, người tham gia tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết nội dung vụ án. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa để Kiểm sát viên phát biểu về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký, người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án, cơ bản phát biểu của Kiểm viên tại phiên tòa đều được Hội đồng xét xử chấp nhận. Từ đó chất lượng công tác kiểm sát giải quyết vụ án được nâng lên, đã hạn chế được số án bị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy, sửa có lỗi của Viện kiểm sát. Kết quả tham gia phiên tòa và kiểm sát bản án sơ thẩm dân sự, VKSND hai cấp tỉnh Lạng Sơn thực hiện tốt công tác kiến nghị, kháng nghị phúc thẩm, trong đó: ban hành 13 kiến nghị (cấp tỉnh: 05, cấp huyện: 08); 16 quyết định kháng nghị phúc thẩm (cấp tỉnh: 13, cấp huyện: 03). Kết quả tỷ lệ kháng nghị, kiến nghị đều được Tòa án chấp nhận.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì một số phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm dân sự chất lượng còn chưa cao, như: Chưa đánh giá đầy đủ việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng tại phiên tòa; Phần nội dung thường nêu lại lời trình bày của các đương sự mà không đi sâu phân tích, đánh giá yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời viện dẫn chưa đầy đủ căn cứ điều luật để đề nghị chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của đương sự hoặc không bổ sung đầy đủ những tình tiết mới phát sinh tại phiên tòa.

Nguyên nhân của những hạn chế tồn tại nêu trên là do các tranh chấp mà Tòa án thụ lý, giải quyết ngày càng tăng, Kiểm sát viên làm công tác kiểm sát giải quyết án dân sự chủ yếu là cán bộ trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm, Lãnh đạo một số VKSND cấp huyện chưa chú trọng đến khâu công tác kiểm sát giải quyết án dân sự, khi duyệt báo cáo đề xuất giải quyết vụ án của Kiểm sát viên chưa chú trọng chất lượng báo cáo đề xuất, nên không phát hiện được vi phạm về tố tụng (xác định thiếu quan hệ pháp luật, xác định thiếu người tham gia tố tụng, xác định sai tư cách đương sự…) và thu thập chưa đầy đủ tài liệu chứng cứ nhưng không phát hiện được, chưa chú trọng đến chất lượng xây dựng dự thảo phát biểu của Kiểm sát viên trước khi tham gia phiên tòa.

Đối với Kiểm sát viên chưa thường xuyên cập nhật văn bản, quy định pháp luật liên quan đến các tranh chấp dân sự qua các thời kỳ; Năng lực và kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án để phát hiện vi phạm về tố tụng, kỹ năng phân tích, tổng hợp, đánh giá chứng cứ, vận dụng pháp luật để giải quyết cho từng vụ án cụ thể còn hạn chế, đặc biệt kỹ năng phát hiện vi phạm của Tòa án về nội dung. Một số Kiểm sát viên chưa nghiên cứu kỹ hồ sơ hoặc thiếu kỹ năng, phương pháp, kinh nghiệm nghiên cứu hồ sơ; chưa nắm chắc Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành, không nắm chắc quá trình tố tụng nên không phát hiện được hết các vi phạm thiếu sót của Thẩm phán, việc đề xuất giải quyết nội dung vụ án chủ yếu là nêu trình bày của đương sự, mà chưa có sự phân tích, lập luận đánh giá với các tài liệu chứng cứ nên phát biểu chất lượng chưa cao. Một số trường hợp, tại phiên tòa đương sự rút một phần yêu cầu khởi kiện hoặc cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ mới làm thay đổi một phần nội dung vụ án nhưng Kiểm sát viên chưa bổ sung kịp thời vào phát biểu tại phiên tòa cho phù hợp với yêu cầu của đương sự.

Do đó, để thực hiện tốt nhiệm vụ trọng tâm về nâng cao chất lượng bài phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm dân sự, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của Ngành trong thời gian tới cần thực hiện tốt các giải pháp sau:

1. Lãnh đạo VKSND hai cấp tỉnh, huyện cần tiếp tục quán triệt, thực hiện triển khai thực hiện đầy đủ chức trách, nhiệm vụ theo quy định của Luật Tổ chức VKSND năm 2014 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Tiếp tục thực hiện tốt Chỉ thị số 04/CT-VKSTC ngày 22/3/2018 về tăng cường các biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật và Nghị quyết chuyên đề số 19-NQ/BCSĐ ngày 17/3/2020 của Ban cán sự đảng VKSND tỉnh Lạng Sơn về "Nâng cao chất lượng kiểm sát giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính và những việc khác theo quy định của pháp luật"; Quy chế công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự, ban hành kèm theo Quyết định 364/QĐ-VKSTC ngày 02/10/2017 của Viện trưởng VKSND tối cao (gọi tắt Quy chế 364); Hướng dẫn số 32/HD-VKSTC ngày 30/11/2018 của VKSND tối cao về việc tham gia, tham dự phiên tòa dân sự, hành chính, kinh doanh thương mại, lạo động rút kinh nghiệm, tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm theo cụm (gọi tắt Hướng dẫn 32) (Theo Công văn số 589/VKS-P9 ngày 21/5/2019 của VKSND tỉnh); Quy định về quy trình, kỹ năng kiểm sát bản án, quyết định giải quyết vụ án dân sự của Tòa án, ban hành kèm theo Quyết định số 399/QĐ-VKSTC ngày 06/9/2019 của VKSND tối cao (gọi tắt Quy định 399); Quy định về hướng dẫn hoạt động của Kiểm sát tham gia phiên tòa dân sự sơ thẩm, ban hành kèm theo Quyết định số 458/QĐ-VKSTC ngày 04/10/2019 của Viện trưởng VKSND tối cao (viết tắt Quy định 458), Thông tư liên tịch số 02, Mẫu phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm giải quyết vụ án ban hành kèm theo Quyết định số 204.

2. Lãnh đạo đơn vị, khi nhận được hồ sơ vụ án do Tòa án chuyển đến, cần đọc hồ sơ, sau đó mới chuyển cho Kiểm sát viên được phân công nghiên cứu, qua đó đánh giá chất lượng báo cáo đề xuất, xây dựng dự thảo phát biểu của Kiểm sát viên để có những chỉ đạo kịp thời trong việc thực hiện quyền yêu cầu của Viện kiểm sát.

Việc phân công Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phải phù hợp với năng lực chuyên môn của từng Kiểm sát viên trong đơn vị; chỉ đạo Kiểm sát viên được phân công tham gia phiên tòa gửi báo cáo án, dự thảo phát biểu cho Lãnh đạo và các Kiểm sát viên trong đơn vị nghiên cứu trước khi duyệt án trước 03 ngày để cùng nghiên cứu và góp ý vào dự thảo phát biểu của Kiểm sát viên.

3. Kiểm sát viên được phân công nghiên cứu hồ sơ vụ án để tham gia phiên tòa phải nắm chắc các quy định của BLTTDS, Bộ luật dân sự, Luật đất đai, Luật hôn nhân và gia đình, Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao…, phát biểu tại phiên tòa sơ thẩm phải theo đúng quy định của Thông tư liên tịch số 02 và Mẫu số 24/DS ban hành kèm theo Quyết định số 204.

Để đánh giá việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán khi được phân công thụ lý, giải quyết vụ án, đã thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đúng quy định của Bộ luật tố tụng hay chưa, khi nghiên cứu hồ sơ Kiểm sát viên phải nắm chắc quy định của BLTTDS về trình tự, thủ tục từ khi thụ lý vụ án, nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán; quyền và nghĩa vụ của các đương sự; phải nghiên cứu kỹ nội dung đơn khởi kiện của các đương sự để xem việc xác định quan hệ pháp luật có tranh chấp có đúng quy định tại các Điều 26, Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự, đồng thời kiểm sát việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của đương sự và việc thay đổi bổ sung yêu cầu của các đương sự khác trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải (Khoản 2 Điều 200, khoản 2 Điều 201 BLTTDS). Khi đương sự có yêu cầu khởi kiện bổ sung, trong thời gian luật định, Tòa án phải thụ lý và phải ra thông báo thụ lý bổ sung yêu cầu khởi kiện gửi cho các đương sự và Viện kiểm sát theo quy định tại Điều 195, Điều 196 BLTTDS. Trên cơ sở đó để xác định đúng, đầy đủ quan hệ pháp luật tranh chấp và người tham gia tố tụng cũng như tư cách tham gia tố tụng của các đương sự trong vụ án.

Quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên phải xem xét về thời hiệu khởi kiện, thẩm quyền thụ lý, giải quyết; việc giao nộp chứng cứ của các đương sự, những tài liệu nào được xác định là chứng cứ theo quy định Điều 95 BLTTDS; việc xác minh, thu thập chứng cứ thuộc những trường hợp nào mà Tòa án tiến hành theo quy định tại Điều 97 BLTTDS. Đồng thời, phải xác định từng loại chứng cứ, nguồn chứng cứ và người cung cấp chứng cứ; kiểm tra thủ tục giao nộp các tài liệu, chứng cứ cho Tòa án, để xác định tính hợp pháp chứng cứ trong hồ sơ; xem xét việc thu thập tài liệu, chứng cứ của Thẩm phán nếu chưa đầy đủ, phải yêu cầu Tòa án thu thập bổ sung tài liệu chứng cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 58 BLTTDS. Việc đánh giá tính hợp pháp của tài liệu, chứng cứ do các đương sự cung cấp và chứng cứ do Tòa án xác minh thu thập là rất quan trọng, nếu đánh giá khách quan các tài liệu chứng cứ giúp cho Kiểm sát viên có quan điểm đề nghị giải quyết vụ án được chính xác, đúng quy định pháp luật.

Về thủ tục tống đạt các văn bản tố tụng cho đương sự, quy định từ Điều 170 đến Điều 181 BLTTDS, việc tống đạt văn bản tố tụng là rất quan trọng để các đương sự biết và thực hiện về quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của BLTTDS, nên khi nghiên cứu hồ sơ vụ án Kiểm sát viên phải kiểm sát việc tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án cho các đương sự có đầy đủ không, thời gian, địa điểm tống đạt, người tống đạt; phương thức, thủ tục tống đạt có hợp lệ không, các đương sự có thể nhận được văn bản tố tụng đó hay không; việc niêm yết công khai các văn bản tố tụng dân sự về thời gian, địa điểm, trình tự niêm yết có đúng quy định tại điều 179 BLTTDS chưa để kịp thời yêu cầu Tòa án khắc phục. Trường hợp phát hiện có vi phạm trong tống đạt, thông báo cho đương sự dẫn tới việc đương sự không thể tham gia tố tụng theo giấy triệu tập của Thẩm phán thì đề nghị hoãn phiên tòa để khắc phục và thực hiện việc tống đạt cho đương sự theo đúng quy định của pháp luật.

Kiểm sát viên khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, phải trích cứu đầy đủ trung thực lời khai của đương sự và các tài liệu chứng cứ khác có liên quan do Tòa án thu thập, trong đó phải xác định được những vấn đề các đương sự yêu cầu Tòa án giải quyết; việc thụ lý của Tòa án vào giai đoạn tố tụng nào, trước hay sau thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; xác định tài liệu do đương sự cung cấp là tài liệu gốc, bản sao công chứng hay tài liệu phô tô để đánh giá tính chất pháp lý của nguồn chứng cứ. Nếu phát hiện có vi phạm về thủ tục tố tụng thì phải chỉ ra được vi phạm vào điều khoản nào, mức độ vi phạm, chủ thể vi phạm để đề xuất kiến nghị hoặc kháng nghị trong từng giai đoạn cho phù hợp.

Khi xây dựng báo cáo đề xuất giải quyết vụ án, Kiểm sát viên phải phân tích, đánh giá tổng hợp chứng cứ, trích dẫn điều luật và các văn bản pháp luật có liên quan cần áp dụng để đề xuất đường lối giải quyết vụ án với Lãnh đạo Viện, đây cũng là cơ sở để xây dựng dự thảo phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm; dự thảo phát biểu của Kiểm sát viên phải gửi cho Lãnh đạo viện duyệt, phải xây dựng đề cương câu hỏi và dự kiến các tình huống có thể phát sinh tại phiên tòa, như: Đương sự rút một phần, hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, hoặc thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án, cung cấp tài liệu chứng cứ mới…

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ phần thủ tục tố tụng nếu có thiếu sót, kịp thời yêu cầu Hội đồng xét xử khắc phục vi phạm nhằm bảo đúng trình tự thủ tục khai mạc phiên tòa sơ thẩm, trong đó chú ý việc đương sự vắng mặt nhưng được triệu tập hợp lệ hay chưa để xem xét việc vềxét xử vắng mặt đương sự theo quy định tại Điều 238, Điều 241 BLTTDS. Đồng thời, tại phiên tòa cần làm rõ những vấn đề còn mâu thuẫn có trong hồ sơ vụ án nhưng Hội đồng xét xử chưa được hỏi và làm tõ tại phiên tòa thì Kiểm sát viên tiến hành hỏi, tuy nhiên việc đặt câu hỏi phải cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu để các đương sự trả lời, không đặt câu hỏi trùng lặp với câu hỏi mà Hội đồng xét xử đã hỏi và đặt câu hỏi phải phù hợp với nội dung vụ án, để bổ sung vào nội dung phát biểu. Bên cạnh đó, Kiểm sát viên phải ghi bút ký phiên tòa đầy đủ, từ khi bắt đầu khai mạc phiên tòa, việc đương sự cung cấp tài liệu, chứng cứ mới, trong đó chú ý là những việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của các đương sự tại phiên tòa, lời khai có nội dung mới khác với lời khai có trong hồ sơ và kết quả tranh tụng, tranh luận để bổ sung đầy đủ vào phát biểu.

Việc phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án, Kiểm sát viên phải tóm tắt được nội dung và phải phân tích, lập luận giải quyết theo yêu cầu của từng đương sự, đánh giá với các tài liệu, chứng cứ mà Tòa án đã thu thập và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, phải kịp thời bổ sung những tình tiết phát sinh mới tại phiên tòa, như việc đương sự thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện tại phiên tòa (nếu có) hoặc rút một phần yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập đều phải được phân tích, nhận định trong phát biểu, để đảm bảo nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự, cần lưu ý việc bổ sung, thay đổi yêu cầu khởi kiện của đương sự nhưng không được vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu, từ đó xem xét chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu khởi kiện bổ sung đó, tránh trường hợp đề nghị giải quyết vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu.

Sau khi kết thúc phiên tòa Kiểm sát viên phải hoàn chỉnh phát biểu cho phù hợp với diễn biến tại phiên tòa, phản ánh khách quan, đúng với kết quả nghiên cứu hồ sơ vụ án, báo cáo án đã được lãnh đạo duyệt và diễn biến tại phiên tòa, không phát biểu theo ý chí chủ quan, không chỉnh sửa sau khi có sự thay đổi về tố tụng, nội dung vụ án tại phiên tòa, gửi ngay cho Tòa án để lưu hồ sơ vụ án theo quy định tại Thông tư liên tịch số 02, Kiểm sát viên phải báo cáo kết quả xét xử cho Lãnh đạo Viện theo quy định của Ngành.

Khi kiểm sát bản án sơ thẩm, Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ và đối chiếu nội dung phát biểu của Kiểm sát viên ghi trong bản án với nội dung phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa có điểm khác nhau không, việc nhận định của bản án sơ thẩm có phù hợp với các chứng cứ trong hồ sơ và tại phiên tòa hay không, từ đó kịp thời báo cáo đề xuất Lãnh đạo ban hành kiến nghị hoặc kháng nghị cho phù hợp.

4. Viện kiểm sát tiếp tục phối hợp với Tòa án cùng cấp để tổ chức các phiên tòa dân sự sơ thẩm rút kinh nghiệm; sau phiên tòa phải tổ chức họp để nhận xét, đánh giá những ưu điểm, thiếu sót tồn tại của Kiểm sát viên trong khi nghiên cứu hồ sơ vụ án và tại phiên tòa, trong đó: Hoạt động của Kiểm sát viên trước phiên tòa, kỹ năng nghiên cứu hồ sơ, kỹ năng phát hiện vi phạm, việc thực hiện quyền yêu cầu đối với Tòa án và đánh giá chất lượng phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa.

Đối với những vụ án phức tạp hoặc có nhiều quan điểm về hướng giải quyết vụ án hoặc có vướng mắc trong áp dụng pháp luật, để việc giải quyết vụ án đúng quy định của pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan Nhà nước, tổ chức, xã hội, cá nhân thì trước khi tham gia phiên tòa lãnh đạo đơn vị cần chủ động báo cáo xin ý kiến thỉnh thị của Viện kiểm sát cấp trên để có hướng dẫn, chỉ đạo.

Tóm lại phát biểu của Kiểm sát viên là một văn bản pháp lý quan trọng của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự, thể hiện quan điểm của Viện kiểm sát trong toàn bộ quá trình xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm. Tại phiên tòa, phát biểu của Kiểm sát viên là một công cụ quan trọng thể hiện quan điểm về toàn bộ việc chấp hành pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và những người gia tố tụng. Ngoài ra, còn thể hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị của Viện kiểm sát đối với những vi phạm của Tòa án, đảm bảo việc ra bản án, quyết định của Tòa án có căn cứ và đúng pháp luật. Thông qua bài phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa dân sự sơ thẩm khẳng định được vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự và nội dung phát biểu còn là nguồn tài liệu quan trọng để Hội đồng xét xử xem xét ra bản án sơ thẩm có căn cứ và đúng pháp luật. Do vậy, Kiểm sát viên khi được phân công giải quyết vụ án và tham gia phiên tòa sơ thẩm cần phải nắm chắc và thực hiện đúng quy định về bài phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát và vị thế của Viện kiểm sát tại phiên tòa.

Trên đây là các giải pháp để nâng cao chất lượng phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm dân sự, nhằm đáp ứng yêu cầu của Ngành trong thời gian tới, góp phần thực hiện tốt hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp nói chung và trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự nói riêng./.

Mông Thị Mai Phương – Phòng 9 VKSND tỉnh Lạng Sơn

(vienkiemsatlangson.gov.vn)
Tìm kiếm