Viện Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm tại Đà Nẵng (Viện phúc thẩm 2)
* Ngày 01/12/2010, Viện Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm tại Đà Nẵng ban hành kháng nghị số 02/QĐ - KNPT đối với bản án hình sự sơ thẩm số 78/2010/HSST ngày 15/11/2010 của Toà án nhân dân tỉnh Đắc Lắc đã xét xử bị cáo Trần Thị Thuý Hằng về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự. Nội dung: Trần Thị Thuý Hằng được bà Ngô Thị Hồng Hạnh, chủ doanh nghiệp Hạnh Vân thuê làm kế toán doanh nghiệp. Lợi dụng nhiệm vụ được giao và lòng tin của bà Hạnh, từ ngày 12/10/2009 đến 31/10/2009, Hằng đã 04 lần thu được 771.500.000đ từ các nhân viên tiếp thị và nhân viên bán hàng nhưng không nộp vào tài khoản doanh nghiệp mà giữ lại sử dụng. Đến nay bị cáo Hằng vẫn chưa bồi thường cho bà Hạnh.
Bị cáo Hằng đã 04 lần chiếm đoạt tiền của bà Hạnh (lần 1 chiếm đoạt 205 triệu đồng, lần 2 chiếm đoạt 155 triệu đồng, lần 3 chiếm đoạt 400 triệu đồng, lần 4 chiếm đoạt 11.500.000đ), phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội nhiều lần” được quy định tại điểm g, khoản 1, Điều 48 Bộ luật hình sự...
Thực hành quyền công tố và Kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân các cấp
Viện Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm tại Đà Nẵng (Viện phúc thẩm 2)
* Ngày 01/12/2010, Viện Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm tại Đà Nẵng ban hành kháng nghị số 02/QĐ - KNPT đối với bản án hình sự sơ thẩm số 78/2010/HSST ngày 15/11/2010 của Toà án nhân dân tỉnh Đắc Lắc đã xét xử bị cáo Trần Thị Thuý Hằng về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự. Nội dung: Trần Thị Thuý Hằng được bà Ngô Thị Hồng Hạnh, chủ doanh nghiệp Hạnh Vân thuê làm kế toán doanh nghiệp. Lợi dụng nhiệm vụ được giao và lòng tin của bà Hạnh, từ ngày 12/10/2009 đến 31/10/2009, Hằng đã 04 lần thu được 771.500.000đ từ các nhân viên tiếp thị và nhân viên bán hàng nhưng không nộp vào tài khoản doanh nghiệp mà giữ lại sử dụng. Đến nay bị cáo Hằng vẫn chưa bồi thường cho bà Hạnh.
Bị cáo Hằng đã 04 lần chiếm đoạt tiền của bà Hạnh (lần 1 chiếm đoạt 205 triệu đồng, lần 2 chiếm đoạt 155 triệu đồng, lần 3 chiếm đoạt 400 triệu đồng, lần 4 chiếm đoạt 11.500.000đ), phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội nhiều lần” được quy định tại điểm g, khoản 1, Điều 48 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử không áp dụng tình tiết này đối với bị cáo là vi phạm quy định của Bộ luật hình sự về căn cứ quyết định hình phạt. Hội đồng xét xử quá nhấn mạnh các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng nên đã xử phạt Trần Thị Thuý Hằng 07 năm tù (trong khung hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân) là quá nhẹ, không tương xứng với tính chất mức độ phạm tội của bị cáo, không có tác dụng cho công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm xâm phạm quyền sở hữu tài sản đang gia tăng và ngày càng nghiêm trọng như hiện nay.
Viện phúc thẩm 2 kháng nghị phần hình phạt tù của bản án hình sự sơ thẩm số 78/2010/HSST ngày 15/11/2010 của Toà án nhân dân tỉnh Đắc Lắc, đề nghị Toà phúc thẩm TAND tối cao tại Đà Nẵng áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đã phân tích ở trên để xử tăng hình phạt tù đối với bị cáo Trần Thị Thuý Hằng.
* Qua công tác kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự Nguyễn Hoàng Bảo cùng đồng bọn phạm tội “Giết người” do Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên xét xử (Bản án số 18/2010/HSST ngày 27/9/2010) có kháng cáo, ngày 02/12/2010, Viện phúc thẩm 2 ban hành văn bản số 03/KN- VPT2 kiến nghịđến Chánh án tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên yêu cầu khắc phục vi phạm, với các nội dung:
- Vi phạm trong ghi Biên bản phiên tòa:
Biên bản nghị án của Hội đồng xét xử vụ án Nguyễn Hoàng Bảo cùng đồng phạm được tiến hành lúc 15h ngày 27 tháng 9 năm 2010, nhưng Biên bản phiên tòa sơ thẩm lại ghi phiên tòa được mở hồi 08h15 phút ngày 07/01/2010, vi phạm khoản 1 Điều 200 Bộ luật tố tụng hình sự.
Trong nội dung Biên bản phiên tòa, ở phần xét hỏi (BL 465, 466) ghi “chủ tọa phiên tòa hỏi người liên quan Trí…”, nhưng ở phần “Những người tham gia tố tụng” thì những người liên quan (16 người) không có người liên quan tên là Trí.
- Vi phạm trong việc ban hành Bản án sơ thẩm và lập hồ sơ vụ án
Bản án số 18/2010/HSST ngày 27/9/2010 không có các trang 05, 06 là trang trình bày về hành vi phạm tội của các bị cáo. Như vậy, Hội đồng xét xử đã vi phạm khoản 3, Điều 244 Bộ luật tố tụng hình sự và Phần thứ Nhất của Phần nội dung, tiết 2.1 khoản 2, mục IV Nghị quyết số 04 ngày 05/11/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Khoản 3, Điều 244 quy định “Trong bản án phải trình bày việc phạm tội của bị cáo, phân tích những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định không có tội…”
Tiết 2.1 khoản 2, mục IV Nghị quyết số 04 ngày 05/11/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ghi “phần thứ Nhất là phần “nhận thấy”, trong đó phải trình bày các hành vi phạm tội của bị cáo mà Viện kiểm sát truy tố; số cáo trạng; ngày, tháng, năm ra cáo trạng…”
Hồ sơ vụ án nêu trên không có bản án gốc đã được Hội đồng xét xử thông qua tại phòng nghị án. Việc không đưa bản án gốc vào lưu trong hồ sơ là vi phạm tiết 2.2 khoản 2, mục IV Nghị quyết số 04 ngày 05/11/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú yên
* Ngày 29/11/2010, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên ban hành văn bản số 737/VKS - P4 gửi Giám đốc Công an tỉnh Phú Yên kiến nghị khắc phục vi phạm trong công tác tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù như vi phạm khoản 2, Điều 26, Nghịđịnh số 89/NĐ-CP ngày 07/11/1998 của Chính phủ về thực hiện chếđộđối với người bị tạm giữ, tạm giam và phạm nhân; chưa tổ chức họp đánh giá xếp loại cho phạm nhân theo khoản 6,7 mục II của Hướng dẫn 2499/HD- V26 ngày 13/4/2006 của Bộ Công an về việc Hướng dẫn thực hiện Quyết định số 1269/2002/QĐ- BCA (V26) ngày 17/12/2002 của Bộ trưởng Bộ Công an ban hành 04 tiêu chuẩn thi đua chấp hành án phạt tù và quy định xếp loại thi đua chấp hành án phạt tù.
Tổng hợp: Thanh Tâm