* Kháng nghị số 07/QĐ- KNPT ngày 06/8/2010 đối với phần quyết định hình phạt tại Bản án HSST số 04/2010/HSST ngày 21/7/2010 của TAND huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên đã áp dụng khoản 3, Điều 104, các điểm b, p khoản 1 Điều 46,47; điểm d khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự (đối với bị cáo Luân áp dụng thêm khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự) xử phạt Phan Thành Luân 04 năm tù, Trần Phi Toàn và Nguyễn Ngọc Huy mỗi bị cáo 02 năm 06 tháng tù về tội cố ý gây thương tích...
Tin về Thực hành quyền công tố và Kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân các cấp
Công tác Kháng nghị các bản án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân các cấp
1. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên
* Kháng nghị số 07/QĐ- KNPT ngày 06/8/2010 đối với phần quyết định hình phạt tại Bản án HSST số 04/2010/HSST ngày 21/7/2010 của TAND huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên đã áp dụng khoản 3, Điều 104, các điểm b, p khoản 1 Điều 46,47; điểm d khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự (đối với bị cáo Luân áp dụng thêm khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự) xử phạt Phan Thành Luân 04 năm tù, Trần Phi Toàn và Nguyễn Ngọc Huy mỗi bị cáo 02 năm 06 tháng tù về tội cố ý gây thương tích.
Lý do kháng nghị: Hành vi phạm tội của các bị cáo Phan Thành Luân, Trần Phi Toàn, Nguyễn Ngọc Huy là rất nghiêm trọng. Giữa các bị cáo và bị hại Nguyễn Tấn Tú không có mâu thuẫn. Chỉ vì thấy Tú cầm gậy đứng giữa đường, Toàn và Trần Thái Công đã gây sựđánh Tú, các bị cáo làm Tú bị tổn hại 62% sức khoẻ. Hành vi của các bị cáo thể hiện tính chất hung hăng, côn đồ, bất chấp pháp luật, xem thường tính mạng, sức khoẻ của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an của địa phương. Các bị cáo đã phạm tội thuộc trường hợp dùng hung khí nguy hiểm và có tính chất côn đồ. Bị cáo Luân, Huy có nhân thân xấu (mỗi bị cáo đã bị xử phạt hành chính 01 lần nhưng chưa chấp hành), do đó cần phải xử phạt các bị cáo mức án nghiêm khắc hơn. Mức án xử phạt đối với các bị cáo là quá nhẹ, không tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà các bị cáo đã gây ra.
Kháng nghị đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm, sửa bản án sơ thẩm nêu trên theo hướng tăng hình phạt đối với các bị cáo Phan Thành Luân, Trần Phi Toàn, Nguyễn Ngọc Huy.
2. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắc Lắc
* Kháng nghị số 08/QĐ- KNPT- VKS-P3 ngày 24/6/2010 đối với Bản án HSST số 121/HSST ngày 26/5/2010 của TAND.TP Buôn Ma Thuột đã xét xử bị cáo:
- Võ Văn Lên, sinh ngày 29/9/1990, đăng ký hộ khẩu thường trú tại Thôn 1, xã Hòa Bình, huyện Krông Ana, tỉnh Đắc Lắc; trú tại số 09, đường Mai Xuân Thưởng, phường Thành Nhất, TP Buôn Ma Thuột.
Về tội “Cướp giật tài sản”
Bản án áp dụng điểm d, khoản 2 Điều 136; điểm p, khoản 1 Điều 46; khoản 1, 2 Điều 60 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Võ Văn Lên 03 năm tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm.
Lý do kháng nghị: Bản án sơ thẩm xét xử bị cáo về tội danh và mức hình phạt là đúng pháp luật, nhưng bị cáo “phạm tội đối với trẻ em” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sựđược quy định tại điểm h, khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự, cấp sơ thẩm không áp dụng là thiếu sót. Đồng thời án sơ thẩm đã áp dụng khoản 1, 2 Điều 60 Bộ luật hình sựđể cho bị cáo Lên được hưởng biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện là trái với quy định tại Nghị quyết 01/2007 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao. Việc xét xử của Tòa án như vậy là chưa nghiêm minh, không đạt được mục đích giáo dục riêng và răn đe, phòng ngừa chung.
Kháng nghị đề nghị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân tỉnh Đắc Lắc áp dụng thêm điểm h, khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự để xử phạt tù giam đối với bị cáo Võ Văn Lên.
3. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng
* Kháng nghị phúc thẩm số 55/KSXX-HS ngày 01/7/2010 của VKSND tỉnh Lâm Đồng đối với phần áp dụng khung hình phạt của bản án hình sự sơ thẩm số 08/HSST ngày 24/6/2010 của TAND huyện Cát Tiên đã áp dụng khoản 1 Điều 139; các điểm b, h, p khoản 1 Điều 46, Điều 60 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc Hoàn ở Gia Viễn, Cát Tiên, Lâm Đồng 18tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 36 tháng về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Lý do kháng nghị: Do biết Trần Văn Khải thường hay vận chuyển gỗ trái phép từ xã Tiên Hoàng về xã Gia Viễn, Cát Tiên, Lâm Đồng nên Nguyễn Quốc Hoàn giả danh là cán bộ kiểm lâm huyện Cát Tiên điện thoại yêu cầu Khải đưa tiền nếu muốn vận chuyển gỗ. Nhờ hành vi gian dối này mà Hoàn nhận được 4000.000đ từ Khải. Sau khi đưa tiền, tưởng có người che chở nên Khải thuê người vận chuyển gỗ từ Tiên Hoàng đến Gia Viễn, trên đường đi thì bị lực lượng kiểm lâm bắt giữ và sự việc bị bại lộ.
Hành vi Hoàn giả danh cán bộ kiểm lâm là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm nghiêm trọng đến hoạt động đúng đắn của cơ quan và nhân viên Nhà nước, xâm phạm đến tài sản của người khác. Hành vi đó đã phạm vào điểm d khoản 2 Điều 139 Bộ luật hình sự nhưng cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo theo khoản 1 Điều 139 là không chính xác, không đúng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.
Kháng nghị đề nghị Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm theo hướng áp dụng điểm d khoản 2 Điều 139 về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” đối với bị cáo Nguyễn Quốc Hoàn.
4.Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh
* Kháng nghị phúc thẩm số 01/KSXX-HS ngày 10/6/2010 của VKSND quận Tân Bình đối với bản án hình sự sơ thẩm số 124/HSST ngày 31/5/2010 của TAND quận Tân Bình, đã áp dụng điểm 2 khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Tô Ngọc (Bin) ở 75/32/15/22 Lý Thánh Tông, phường Tân Thới Hòa, quận Tân Phú 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 03 năm 11 tháng 17 ngày về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”
Lý do kháng nghị: Mức hình phạt 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 03 năm 11 tháng 17 ngày mà Hội đồng xét xử tuyên đối với bị cáo Tô Ngọc là sai, không đúng với hướng dẫn của Nghị quyết 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: khi Tòa tuyên bị cáo mức án 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo thì lấy số ngày bị cáo bị tuyên án trừđi số ngày bị tạm giam, sau đó mới nhân hai để tính thời gian thử thách đối với bị cáo. Trong vụ án này, bị cáo bị tạm giam chờ xét xử là 13 ngày (từ ngày 18/5/2010 đến ngày 31/5/2010) thì thời gian thử thách của bị cáo phải chấp hành là 03 năm 11 tháng 4 ngày.
Kháng nghị đề nghị Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm theo hướng sửa bản án sơ thẩm số 124/HSST ngày 31/5/2010 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình về thời gian thử thách đối với bị cáo Tô Ngọc.
Tổng hợp: Thanh Tâm