Khoản 1 và khoản 3 Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định:
"1. Khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết.
…
3. Khi xem xét hủy quyết định quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án phải đưa cơ quan, tổ chức hoặc người có thẩm quyền đã ban hành quyết định tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan".
Khoản 3 Điều 60 Luật tố tụng hành chính năm 2015 quy định: "Trường hợp người bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức thì người bị kiện chỉ được ủy quyền cho cấp phó của mình đại diện. Người được ủy quyền phải tham gia vào quá trình giải quyết toàn bộ vụ án, thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của người bị kiện theo quy định của Luật này".
Do đó, trong trường hợp vụ việc dân sự có yêu cầu hủy quyết định cá biệt của của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thì Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, không phải là người bị kiện nên không áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 60 Luật tố tụng hành chính năm 2015.
Việc giải quyết vụ việc dân sự phải được tiến hành theo thủ tục tố tụng dân sự, vì vậy, phải áp dụng các quy định về người đại diện của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (Điều 85). Cụ thể như sau:
- Nếu người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ủy ban nhân dân thì có đại diện theo pháp luật. Người đại diện theo pháp luật có thể ủy quyền cho người khác.
- Nếu người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Chủ tịch Ủy ban nhân dân thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân có thể ủy quyền cho người khác đại diện cho mình tham gia tố tụng.