Do người vợ chết năm 2012 nên căn cứ áp dụng pháp luật về thừa kế là Bộ luật Dân sự năm 2005, năm 2015 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định tại Điều 663 “Vợ chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung”; Điều 668 “Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết”; khoản 2 Điều 664 “Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung ... nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình”. Khoản 1 Điều 640 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng quy định “Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc đã lập vào bất cứ lúc nào”. Như vậy, trong trường hợp này (di chúc được công chứng tại Văn phòng công chứng nên được xem là di chúc hợp pháp) người chồng có quyền thay đổi di chúc đối với phần di sản là nhà và đất của mình.
Di chúc có hiệu lực pháp luật về phần di sản của người vợ để lại, do đó, người con có quyền được hưởng theo nội dung di chúc. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 669 Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về trường hợp “Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc”, nên người con có thể không được hưởng toàn bộ phần di sản của người vợ nếu có những người thuộc trường hợp “Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc” có yêu cầu được chia di sản không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
Do vậy, người chồng có thể bán hoặc thế chấp phần tài sản của mình trong khối tài sản nêu trên sau khi đã làm thủ tục hủy bỏ phần di chúc đã lập chung với vợ và thỏa thuận được phân chia tài sản trên với con trai (phần di sản thừa kế con trai được hưởng từ người vợ).
Trường hợp người chồng và con trai không thỏa thuận được thì khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.