Nếu không có căn cứ để hủy bỏ biện pháp tạm giam, việc Viện kiểm sát ra quyết định gia hạn tạm giam trong trường hợp nêu trên là đúng thẩm quyền được quy định Điều 173 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Tại khoản 3 Điều 173 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định "Thẩm quyền gia hạn tạm giam để điều tra của Viện kiểm sát", như sau:
"a) Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực có quyền gia hạn tạm giam đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng. Trường hợp vụ án do Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra cấp quân khu thụ lý điều tra thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền gia hạn tạm giam đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và gia hạn tạm giam lần thứ nhất đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
b) Trường hợp thời hạn gia hạn tạm giam lần thứ nhất đã hết mà chưa thể kết thúc việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có thể gia hạn tạm giam lần thứ hai đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng".
Tại khoản 4 Điều 173 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định thời gian gia hạn tạm giam của Viện kiểm sát như sau:
"Trường hợp vụ án do Cơ quan điều tra Bộ Công an, Cơ quan điều tra Bộ Quốc phòng, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao thụ lý điều tra thì việc gia hạn tạm giam thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương".
Các trường hợp gia hạn đặc biệt khác quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều 173 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thuộc thẩm quyền của Viện trưởng VKSND tối cao.