Ngày 10/3/2014, Nguyễn Văn A bị Tòa án nhân dân quận X xử phạt 01 năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 năm kể từ ngày tuyên án (10/3/2014), về tội vận chuyển hàng cấm (thuốc lá điếu nhập lậu) theo Điều 155 BLHS năm 1999.
Ngày 19/01/2016, Nguyễn Văn A bị bắt quả tang về hành vi buôn bán hàng cấm, số lượng 300 bao thuốc lá điếu nhập lậu và bị khởi tố, truy tố về tội buôn bán hàng cấm theo Điều 155 BLHS năm 1999. Sau khi TAND quận X thụ lý hồ sơ, ngày 26/9/2017 VKSND quận X có công văn rút quyết định truy tố đối với Nguyễn Văn A; ngày 29/9/2017, TAND quận X ra quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can Nguyễn Văn A (căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14 và Công văn số 154/TANDTC-PC ngày 25/7/2017 của TAND tối cao) và chuyển hồ sơ vụ án cho UBND quận X để xử lý vi phạm hành chính đối với Nguyễn Văn A. Như vậy, việc VKSND quận X rút quyết định truy tố; TAND quận X ra quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can Nguyễn Văn A và chuyển hồ sơ vụ án cho UBND quận X để xử lý vi phạm hành chính đối với Nguyễn Văn A là đúng quy định của pháp luật.
Ngày 02/11/2017, UBND quận X ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Nguyễn Văn A về hành vi buôn bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu; hình thức xử phạt: Phạt tiền; mức tiền phạt là 92.000.000 đồng. Sau khi ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, Nguyễn Văn A được mời đến ký tên và ghi họ tên vào góc phía dưới bên trái của Quyết định; không có thể hiện ngày, tháng, năm giao nhận quyết định; cũng không giao cho A quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 101 Nghị định 185/2013/NĐ-CP(sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 124/2015/NĐ-CP)thì Chủ tịch UBND cấp huyện có quyền phạt tiền đến 50.000.000 đồng, đối với hành vi vi phạm về buôn bán, vận chuyển, tàng trữ, giao nhận hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu; Điều 70 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định: “Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính có lập biên bản, người có thẩm quyền đã ra quyết định xử phạt phải gửi cho cá nhân, tổ chức bị xử phạt, cơ quan thu tiền phạt và cơ quan liên quan khác (nếu có) để thi hành.Quyết định xử phạt vi phạm hành chính được giao trực tiếp hoặc gửi qua bưu điện bằng hình thức bảo đảm và thông báo cho cá nhân, tổ chức bị xử phạt biết.Đối với trường hợp quyết định được giao trực tiếp mà cá nhân, tổ chức vi phạm cố tình không nhận quyết định thì người có thẩm quyền lập biên bản về việc không nhận quyết định có xác nhận của chính quyền địa phương và được coi là quyết định đã được giao”. Như vậy, quyết định xử phạt vi phạm hành chính ngày 02/11/2017 của UBND quận X đối với Nguyễn Văn A có vi phạm về thẩm quyền xử phạt và vi phạm về thủ tục giao quyết định xử phạt vi phạm hành chính cho người bị xử phạt.
Ngày 26/10/2018,Nguyễn Văn A bị bắt quả tang vận chuyển 330 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhưng do quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Nguyễn Văn A nêu trên là trái pháp luật và hành vi buôn bán 300 bao thuốc lá điếu nhập lậu của A ngày 19/01/2016 đã hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính (quá 02 năm) nên hành vi vận chuyển 330 bao thuốc lá điếu nhập lậu ngày 26/10/2018 của Nguyễn Văn A chưa có đủ dấu hiệu phạm tội vận chuyển hàng cấm quy định tại điểm e, khoản 1 Điều 191 BLHS năm 2015(sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Đối với bản án ngày 10/3/2014 của Tòa án nhân dân quận X xử phạt Nguyễn Văn A 01 năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 năm kể từ ngày tuyên án (10/3/2014), về tội vận chuyển hàng cấm theo Điều 155 BLHS năm 1999, cần phải làm rõ: Bản án này có tuyên hình phạt bổ sung và các quyết định khác đối với Nguyễn Văn A hay không; nếu bản án có tuyên hình phạt bổ sung và các quyết định khác thì việc thi hành bản án của Nguyễn Văn A là căn cứ để xác định thuộc một trong hai trường hợp sau đây:
(1) Nếu bản án không tuyên hình phạt bổ sung và các quyết định khác hoặc bản án có tuyên hình phạt bổ sung và các quyết định khác đối với Nguyễn Văn A nhưng A đã thi hành xong trước ngày 26/10/2017 thì A được đương nhiên xóa án tích (theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 64 BLHS năm 1999) và hành vi vận chuyển 330 bao thuốc lá điếu nhập lậu ngày 26/10/2018 của A chưa đủ dấu hiệu phạm tội vận chuyển hàng cấm quy định tại điểm e khoản 1 Điều 191 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
(2) Nếu bản án có tuyên hình phạt bổ sung và các quyết định khác đối với Nguyễn Văn A nhưng A chưa thi hành xong trước ngày 26/10/2017 thì A chưa đương nhiên được xóa án tích (theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 64 BLHS năm 1999) và hành vi vận chuyển 330 bao thuốc lá điếu nhập lậu ngày 26/10/2018 của A có đủ dấu hiệu phạm tội vận chuyển hàng cấm quy định tại điểm e khoản 1 Điều 191 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Vụ 3, VKSND tối cao