CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

The Supreme People’s Procuracy of Viet Nam

Viện kiểm sát nhân dân kiến nghị khắc phục vi phạm trong việc thực hiện Bộ luật tố tụng dân sự

18/07/2012
Cỡ chữ:   Tương phản
Thông qua công tác kiểm sát việc thụ lý, giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mai… Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh Quảng Ninh; Sóc Trăng và Thừa Thiên - Huế đã ban hành các kiến nghị số 04 ngày 25/6/2012; số 486 ngày 3/7/2012 và số 882 ngày 11/7/2012 kiến nghị yêu cầu Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh khắc phục vi phạm, chỉ đạo rút kinh nghiệm chung đảm bảo cho việc thụ lý, giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại …
Viện kiểm sát nhân dân kiến nghị khắc phục
vi phạm trong việc thực hiện Bộ luật tố tụng dân sự
 
Thông qua công tác kiểm sát việc thụ lý, giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mai… Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh Quảng Ninh; Sóc Trăng và Thừa Thiên - Huế đã ban hành các kiến nghị số 04 ngày 25/6/2012; số 486 ngày 3/7/2012 và số 882 ngày 11/7/2012 kiến nghị yêu cầu Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh khắc phục vi phạm, chỉ đạo rút kinh nghiệm chung đảm bảo cho việc thụ lý, giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại … đúng quy định của pháp luật. Trang tin điện tử Viện kiểm sát nhân dân tối cao xin trích đăng:
1.     Vi phạm về việc áp dụng Điều 131 Bộ luật tố tụng dân sự:
Một số bản án sơ thẩm của Tòa án khi đề cập đến phần án phí không áp dụng Điều 131 Bộ luật tố tụng dân sự làm căn cứ để quyết định đương sự phải nộp án phí sơ thẩm đối với những trường hợp phải nộp là chưa đầy đủ (Bản án số 01 ngày 20/2/2012; số 02 ngày 21/2/2012; số 06 ngày 9/4/2012 của Tòa án tỉnh Quảng Ninh; Bản án số 01 ngày 19/3/2012 của Tòa án huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh; Bản án số 05 ngày 17/01/2012 của Tòa án Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh…).
Trong một số quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, Tòa án đã áp dụng Điều 131 Bộ luật tố tụng dân sự để giải quyết về phần án phí là không đúng hoặc có trường hợp vừa áp dụng Điều 193 Bộ luật tố tụng dân sự vừa áp dụng Điều 131 Bộ luật tố tụng dân sự để giải quyết về án phí là mâu thuẫn vì Điều 131 quy định về án phí trong vụ án Tòa án đã giải quyết về nội dung tranh chấp của đương sự còn Điều 193 quy định về xử lý án phí trong trường hợp đình chỉ giải quyết vụ án (Quyết định đình chỉ số 02 ngày 14/5/2012 của Tòa án huyện Đầm Hà, tỉnh Quảng Ninh; Quyết định đình chỉ số 07 ngày 27/2/2012 của Tòa án thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh; Quyết định đình chỉ số 02 ngày 13/2/2012 của Tòa án huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh…).
2. Vi phạm về thời hạn chuẩn bị xét xử:
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự quy định “Đối với những vụ án quy định tại Điều 25 và Điều 27 của Bộ luật này thời hạn xét xử là 04 tháng kế từ ngày thụ lý vụ án” và Điểm b Khoản 1, Điều 179 quy định “…Đối với những vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định thời hạn gia hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá hai tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại Điểm a..” Tuy nhiên trong thời gian qua Tòa án tỉnh Sóc Trăng có 09 vụ án để quá hạn luật định chưa có quyết định đưa vụ án ra giải quyết theo Khoản 2 Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi bổ sung năm 2011.
 Có bản án để quá hạn xét xử phúc thẩm 72 ngày (Vụ tranh chấp thừa kế thụ lý số 03 ngày 13/2/2012 của Tòa án tỉnh Quảng Ninh).
3. Vi phạm về thời gian gửi thông báo thụ lý sơ thẩm:
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 174 Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi “Trong thời gian ba ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án Tòa án phải gửi thông báo bằng văn bản cho bị đơn, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án, cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án thụ lý vụ án”: Qua kiểm sát thấy có thông báo Tòa án gửi chậm đến 01 tháng, cụ thể như: Thông báo thụ lý số 28 ngày 12/01/2012 vụ tranh chấp quyền sở hữu tài sản và quyền sử dụng đất của Tòa án tỉnh Sóc Trăng gửi chậm 24 ngày… Tòa án tỉnh Thừa Thiên - Huế có 108 vụ án gửi chậm từ 5 ngày đến 01 tháng.
4. Vi phạm trong việc gửi bản án, quyết định sơ thẩm, phúc thẩm
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 241 Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 quy định “Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày tuyên án Tòa án phải giao hoặc gửi bản án cho các đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện và Viện kiểm sát cùng cấp” Qua kiểm sát thấy Tòa án tỉnh Sóc Trăng có 02 bản án gửi chậm 41 ngày: bản án số 03 ngày 26/3/2012 và số 04 ngày 26/3/2012; Tòa án tỉnh Thừa Thiên - Huế gửi 108 bản án, quyết định chậm từ 5 ngày đến 01 tháng.
Theo quy định tại Điều 281 Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 quy định “Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày ra bản án, quyết định phúc thẩm Tòa án cấp phúc thẩm phải gửi bản án, quyết định cho Tòa án đã xét xử sơ thẩm, Viện kiểm sát cùng cấp…” Qua kiểm sát thấy Tòa án tỉnh Sóc Trăng gửi 17 bản án chậm từ 02 đến 35 ngày, điển hình: Bản án số 30 ngày 15/2/2012 gửi chậm 14 ngày; bản án số 39 ngày 21/2/2012 gửi chậm 35 ngày. Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên - Huế có 12 vụ án không gửi bản án, quyết định cho Viện kiểm sát
5. Một số vi phạm khi ban hành bản án, quyết định:
 Vi phạm Khoản 3 Điều 279 Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011: Trong quá trình giải quyết vụ kiện có Kiểm sát viên tham gia phiên tòa nhưng trong bản án không ghi họ tên Kiểm sát viên tham gia tại phiên tòa (Bản án số 13 ngày 20/01/2012 của Tòa án tỉnh Sóc Trăng); ghi tên Kiểm sát viên khác tham gia phiên tòa không chính xác (Bản án số 26 ngày 9/2/2012 của Tòa án tỉnh Sóc Trăng).
6. Một số vi phạm khác
 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 sau khi được sửa đổi, bổ sung đã xóa bỏ Điều 200 quy định về sự có mặt của bị đơn tại phiên tòa nhưng đến nay một số Tòa án cấp huyện (Quảng Yên và Đông Triều của tỉnh Quảng Ninh) khi xét xử vẫn áp dụng Điều 200 và ghi vào bản án đề làm căn cứ giải quyết vụ án (Bản án số 01 ngày 24/4/2012 của Tòa án thị xã Quảng Yên; Bản án số 05 ngày 29/3/2012 của Tòa án huyện Đông Triều).
Theo quy định tại Nghị quyết số 35 ngày 9/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân gia đình năm 2000; Thông tư liên tịch số 01 ngày 03/01/2001 giữa Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ tư pháp hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35 thì trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987 (ngày Luật hôn nhân gia đình 1986 có hiệu lực) mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Tòa án giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân gia đình năm 2000. Đến nay qua hơn 10 năm thực hiện cả hai cấp xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đều thực hiện không đúng quy định và hướng dẫn trên (bản án phúc thẩm số 16 ngày 19/4/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh).
Trên đây là một số vi phạm của Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc dân sự đã được Viện kiểm sát địa phương phát hiện, kiến nghị yêu cầu khắc phục, sửa chữa, Trang tin điện tử ngành đăng tải để các bạn đọc tham khảo.
Thúy Hồng
Tìm kiếm