CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

The Supreme People’s Procuracy of Viet Nam

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang thông báo rút kinh nghiệm công tác kiểm sát giải quyết án dân sự

19/05/2012
Cỡ chữ:   Tương phản
Thông qua công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình Quý I/2012, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang đã ban hành thông báo rút kinh nghiệm gửi các Viện Kiểm sát nhân dân huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh nghiên cứu rút kinh nghiệm chung nhằm nâng cao chất lượng công tác Kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự. Trang thông tin điện tử Viện kiểm sát nhân dân tối cao trích đăng nội dung để bạn đọc tham khảo...
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang thông báo
rút kinh nghiệm công tác kiểm sát giải quyết án dân sự
 
Thông qua công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình Quý I/2012, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang đã ban hành thông báo rút kinh nghiệm gửi các Viện Kiểm sát nhân dân huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh nghiên cứu rút kinh nghiệm chung nhằm nâng cao chất lượng công tác Kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự. Trang thông tin điện tử Viện kiểm sát nhân dân tối cao trích đăng nội dung để bạn đọc tham khảo.
 Vụ kiện tranh chấp hợp đồng góp hụi giữa: Nguyên đơn Nguyễn Thị Ngọc Mai, sinh năm 1969 với Bị đơnHà Thị Thanh Lan,sinh năm 1970, đều trú tại ấp Cần Thới, xã Cần Thạnh, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:Bà Ngô Thị Bế, sinh năm 1940.
Nội dung: Vào năm 2009, giữa bà Mai với bà Lan có quan hệ hợp đồng góp hụi. Sau khi hốt hụi, bà Lan không thực hiện nghĩa vụ trả tiền hụi theo định kỳ cho bà Mai, nên phát sinh tranh chấp. Bà Mai yêu cầu bà Lan trả 17.200.000đ, sau khi đã khấu trừ 12.000.000đ do bà Ngô Thị Bế (mẹ của bà Lan trả thay). Phía bà Lan không đồng ý thanh toán nợ, vì khi bà không còn khả năng thanh toán, bà Mai đã thỏa thuận với mẹ của bà để nhận 12.000.000đ là thanh toán xong nợ. Bà Ngô Thị Bế xác nhận ngày 14/4/2011 hai bên lập tờ cam kết với nội dung: Bà có thương lượng với bà Mai về việc nhận nghĩa vụ trả nợ thay cho bà Lan, hai bên thống nhất số nợ 30.000.000đ, bà Mai đồng ý nhận 12.000.000đ là hết nợ.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 125/2011/DS-ST ngày 18/10/2011 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành tuyên xử: Buộc bà Hà Thị Thanh Lan phải trả cho bà Nguyễn Thị Ngọc Mai số tiền hụi 15.692.000đ. Bà Hà Thị Thanh Lan có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm nêu trên.
Bản án dân sự phúc thẩm số 07/2012/DS-PT ngày 11/01/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang đã quyết định: Sửa bản án sơ thẩm; không chấp nhận đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thị Ngọc Mai yêu cầu bà Hà Thị Thanh Lan phải trả 17.200.000đ. Bà Mai phải chịu 860.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Lý do sửa án sơ thẩm: Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Ngọc Mai, về việc buộc bà Hà Thị Thanh Lan trả số tiền hụi 15.692.000đ. Nhưng chứng cứ tại hồ sơ thể hiện khi bà Lan bỏ địa phương đi nơi khác, bà Mai đến gặp bà Ngô Thị Bế (mẹ bà Lan) để thỏa thuận việc thanh toán nợ hụi, giữa bà Mai với bà Bế ký tờ thỏa thuận chuyển giao nghĩa vụ từ bà Lan sang bà Bế. Bà Mai đã nhận 12.000.000đ từ bà Bế trên cơ sở tự thỏa thuận và ký xác nhận trả dứt nợ. Từ đó cho thấy việc bà Mai tiếp tục khởi kiện bà Lan để đòi số nợ hụi 17.200.000đ là không có căn cứ.
 Vụ kiện tranh chấp ly hôn giữa: Nguyên đơn Phan Thanh Bình, sinh năm 1980 và bị đơn Nguyễn Thị Trúc Hà, sinh năm 1986. Đều trú tại Ấp Bình Quới, xã Bình Phú, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Thị Huệ Trinh, sinh năm 1985; Lê Thị Giàu, sinh năm 1983; Nguyễn Ngọc Hiếu, sinh năm 1978; Hồ Kim Hoàng, sinh năm 1964; Nguyễn Thị Chớp, sinh năm 1966; Phan Thị Kiều Trinh, sinh năm 1976; Nguyễn Thị Trang, sinh năm 1967; Nguyễn Thị Diệu, sinh năm 1979; Phạm Thị Nhiễm, sinh năm 1983; Nguyễn Thị Kim Khoa, sinh năm 1988; Nguyễn Thị Lan, sinh năm 1958; Nguyễn Thị Kim Lệ, sinh năm 1951.
Nội dung: Ông Bình kết hôn với bà Hà vào năm 2006, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2011 phát sinh mâu thuẫn ly thân. Ông Bình khởi kiện yêu cầu ly hôn, yêu cầu nuôi con chung tên Phan Nguyễn Thành Nghĩa, sinh ngày 01/4/2008, không yêu cầu bà Hà cấp dưỡng nuôi con và yêu cầu chia tài sản chung bà Hà đang quản lý gồm: 10 chỉ vàng 24 kara, 10 chỉ vàng 18 kara, 68.000.000đ. Ngoài ra không chấp nhận số nợ của 11 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan với số tiền là 83.121.000 và 39 chỉ vàng 24kra.
Tại bản án hôn nhân sơ thẩm số 219/2011/HN-ST ngày 09/12/2011 của Tòa án nhân dân huyện Châu Phú xử: Ông Phan Thanh Bình được ly hôn với bà Nguyễn Thị Trúc Hà. Về con chung giao cho ông Phan Thanh Bình được tiếp tục nuôi con chung là Phan Nguyễn Thành nghĩa, sinh ngày 01/4/2008, bà Hà không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản: Bà Hà được sở hữu 01 tủ áo bằng nhôm trị giá 2.000.000đ, 01 dàn máy may trị giá 1.500.000đ. Bà Hà hoàn cho ông Bình 1.750.000đ. Về nợ chung: ông Bình, bà Hà mỗi người có trách nhiệm trả 41.560.500đ và 19,5 chỉ vàng 24kra. Ông Phan Thanh Bình có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xem xét lại tài sản chung của vợ chồng do bà Hà quản lý và xem xét số nợ của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
Bản án hôn nhân phúc thẩm số 18/2012/HN-PT ngày 16/3/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang đã quyết định: Hủy một phần bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 219/2011/HN-ST ngày 09/12/2011 của Tòa án nhân dân huyện Châu Phú về phần tài sản. Giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện Châu Phú giải quyết lại vụ án.
Lý do hủy một phần bản án sơ thẩm: Đối với những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án có yêu cầu ông Bình, bà Hà phải trả số nợ 83.121.000 và 39 chỉ vàng 24kra. Nhưng Tòa cấp sơ thẩm không hướng dẫn cho đương sự nộp tiền tạm ứng án phí, vẫn đưa vào giải quyết trong vụ án là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng theo quy định tại Điều 178 Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2011). Mặt khác giữa ông Bình, bà Hà và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khai không thống nhất, ông Bình khai ông không biết các khoản nợ bà Hà vay, các biên nhận nợ thể hiện chỉ có bà Hà ký tên; Đối với số nợ 27 chỉ vàng 24kra bà Lan yêu cầu bà Hà cùng bà Lệ (mẹ ruột) phải hoàn trả, nhưng Tòa cấp sơ thẩm buộc ông Bình, bà Hà trả số nợ cho bà Lan là vượt quá yêu cầu khởi kiện của đương sự. Tòa cấp sơ thẩm chưa thu thập chứng cứ để xem xét lời nại của ông Bình về tài sản chung của vợ chồng, chưa xem xét điều chỉnh khoản lãi cao các bên thỏa thuận mà bà Hà đã trả cho các đương sự.
Vụ kiện tranh chấpquyền sử dụng đất giữa: Nguyên đơn bà Lê Thị Thảo, sinh năm 1972 và bị đơnbàHuỳnh Thị Ngọc Bích, sinh năm 1954.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Huỳnh Văn Hòa, sinh năm 1968.
Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đều trú tại khóm 2, thị trấn Tri Tôn, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang.
Nội dung: Trước năm 1975 gia đình bà Huỳnh Thị Ngọc Bích được ông Chau Khê cho làm nhà ở trên diện tích đất ngang 06m, dài khoảng 17m tọa lạc khóm 2, thị trấn Tri Tôn. Năm 2000, bà Bích nhận chuyển nhượng nền đất từ người thừa kế của ông Chau Khê là bà Trần Thị Bú cùng các con gồm Néang Sa Ma, Chau Bo, Chau Bane và Chau Thị Nghiệp, khi mua có bức tường làm ranh giới với đất của cơ quan Bảo hiểm xã hội cũ. Năm 2002 vợ chồng bà Thảo, ông Hòa có mua 01 căn nhà cùng nền đất thổ cư diện tích là 107,74m2 theo quyết định bán tài sản sung công quỹ Nhà nước của Hội đồng định giá bán đấu giá tài sản huyện Tri Tôn. Đến ngày 03/11/2006 Ủy ban nhân dân huyện Tri Tôn thành lập Hội đồng định giá tiếp diện tích đất 13,16m2 để bán cho vợ chồng bà Thảo,ông Hòa, tổng diện tích là 120,90m2. Sau khi bà Thảo, ông Hòa được cấp quyền sử dụng đất thì xảy ra tranh chấp. Bà Thảo khởi kiện yêu cầu bà Bích trả diện tích ngang 0,5m x dài 17m đất đã lấn chiếm. Phía bà Bích không đồng ý, vì bà không có lấn chiếm đất của gia đình bà Thảo.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 15/2011/DS-ST ngày 20/12/2011 của Tòa án nhân dân huyện Tri Tôn xử: Chấp nhận yêu cầu của bà Lê Thị Thảo về việc tranh chấp quyền sử dụng đất. Buộc bà Huỳnh Thị Ngọc Bích phải có trách nhiệm giao trả 6,1m2 đất tại cột mốc 6,7 và 2,3 (có kèm theo bản đồ hiện trạng khu đất ký ngày 05/9/2011 của Phòng Tài nguyên và môi trường huyện Tri Tôn). Bà Huỳnh Thị Ngọc Bích có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm nêu trên.
Bản án dân sự phúc thẩm số 112/2012/DS-PT ngày 12/4/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang đã quyết định: Hủy bản án dân sự sơ thẩm số 15/2011/DS-ST ngày 20/12/2011 của Tòa án nhân dân huyện Tri Tôn. Giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện Tri Tôn giải quyết lại theo thủ tục chung.
 Lý do hủy bản án và những vấn đề cần rút kinh nghiệm: Tranh chấp quyền sử dụng đất giữa bà Lê Thị Thảo với bà Huỳnh Thị Ngọc Bích có liên quan đến bà Trần Thị Bú cùng các con bà (người chuyển nhượng đất cho bà Bích). Nhưng Tòa cấp sơ thẩm không đưa bà Trần Thị Bú cùng các con gồm Néang Sa Ma, Chau Bo, Chau Bane và Chau Thị Nghiệp vào tham gia tố tụng trong vụ án là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng theo quy định tại khoản 4 Điều 56 Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2011). Mặt khác Tòa sơ thẩm chưa thu thập chứng cứ về bức tường làm ranh giới giữa hai nhà có từ thời điểm nào, lý do vì sao Quyết định bán tài sản cho bà Lê Thị Thảo chỉ thể hiện diện tích 107,74m2, nhưng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Ủy ban nhân dân huyện Tri Tôn lại cấp cho bà Thảo là 120,90m2 và xem xét trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng bà Thảo.
Thanh Tâm
Tìm kiếm