Thông qua công tác kiểm sát giải quyết một số vụ án theo thủ tục phúc thẩm bị Tòa án nhân dân tỉnh hủy do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B đã ban hành thông báo rút kinh nghiệm chung trong toàn tỉnh. Trang tin điện tử VKSND tối cao trích đăng để bạn đọc tham khảo:...
Rút kinh nghiệm vụ án cấp phúc thẩm hủy do vi phạm thủ tục tố tụng
Thông qua công tác kiểm sát giải quyết một số vụ án theo thủ tục phúc thẩm bị Tòa án nhân dân tỉnh hủy do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B đã ban hành thông báo rút kinh nghiệm chung trong toàn tỉnh. Trang tin điện tử VKSND tối cao trích đăng để bạn đọc tham khảo:
Vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất giữa: Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh 1971; anh Trần Tuấn A, sinh 1993, cùng địa chỉ: Đông Du - Đào Viên – huyện Q, tỉnh B; Anh Trần Tuấn A ủy quyền cho chị H. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh 1961; ông Phạm Ngọc Kh, sinh 1958 (Cmt 1957); ông Kh ủy quyền cho ông Phạm Văn Ng, cùng địa chỉ: Thành Dền, Đào Viên, huyện Q, tỉnh B.
Nội dung vụ án: Nguồn gốc thửa đất số 71, tờ bản đồ số 20, diện tích 233m2 ở Thành Dền, Đào Viên, huyện Q, tỉnh B gia đình chị H đang quản lý sử dụng là do bố mẹ chị H khai hoang từ năm 1960. Chị H được bố mẹ cho vào năm 1992 khi chị đi lấy chồng và sử dụng từ đó đến nay không tranh chấp với ai. Quá trình sử dụng chị đã thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước, đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 394453 với diện tích sử dụng là 233m2. Tháng 6/2013 ông Kh là chủ sử dụng thửa đất liền kề gia đình chị H đã xây tường lấn sang phần đất chị H khoảng 70m2.
Nguồn gốc thửa đất của nhà ông Kh là mua lại 1/2 thửa đất của ông Q mua của UBND xã Đào Viên thuộc khu máy kéo cũ có diện tích 512m2. Ngày 14/6/ 1997 ông Q bán cho ông Nguyễn Văn Ph 256m2 nêu trên = 1/2 diện tích mua của UBND xã. Phần đất còn lại ông Q bán chovợ chồng ông Phạm Ngọc Kh, bà Nguyễn Thị T vào ngày 15/6/1997.
Quá trình hòa giải tại UBND xã đã cử người về đo lại đất của gia đình ông Kh thì được biết đất nhà chị H chỉ còn 163m2, đất nhà ông Kh là 317,34m2. Hiện đất nhà ông Kh chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Nay chị H khởi kiện đề nghị buộc gia đình ông Kh phải tự tháo dỡ công trình sai phạm trả lại toàn bộ diện tích đất lấn chiếm của gia đình chị H.
Bản án sơ thẩm số 21/DSST ngày 24/9/2015 của TAND huyện Q đã áp dụng: Điều 203 luật đất đai; Điều 688 Bộ luật dân sự. Điều 2,4,7,9 thông tư liên tịch số 01/2014/TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 6/01/2014 của TANDTC-VKSNDTC- Bộ Tư Pháp. Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí tòa án xử:
1. Bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đòi bị đơn phải tháo dỡ tường bao và trả lại 63,5m2 đất ở thuộc thửa đất số 71 tờ bản đồ số 20 của UBND xã Đào Viên, huyện Q, tỉnh B.
2. Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 394453 ngày 06/11/2007 số vào sổ HO 1692 của UBND huyện Q, tỉnh B đối với thửa đất số 71 tờ bản đồ số 20 của UBND xã Đào Viên, huyện Q, tỉnh B.
Ngày 23/10/2015 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B ban hành quyết định kháng nghị số 03 /QĐKNPT-P9 đề nghị HĐXX phúc thẩm xét xử theo hướng hủy toàn bộ bản án sơ thẩm.
Bản án số 33/2016/DSPT ngày 11/4/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh B đã hủy toàn bộ bản án sơ thẩm.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm:
Về tố tụng: Vi phạm trong việc không đưa một số người có quyền lợi và nghĩa vụ tham gia tố tụng. Sau khi kết hôn chị H được bố mẹ cho thửa đất số 71 có một phần diện tích đang tranh chấp với ông Kh, bà T. Sau đó anh chị làm một sân vôi phơi thóc và quản lý sử dụng từ đó đến nay. Hiện tại vợ chồng chị H đang sinh sống tại thôn Thành Dền, Đào Viên, huyện Q, tỉnh B.
Giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất số 71, tờ bản đồ 20, diện tích 233m2. Ngày 6/11/2007 thôn Đông Du, Đào Viên, huyện Q, tỉnh B cấp cho hộ bà Nguyễn Thị H, ông Trần Tuấn A. Tuy nhiên, trong sổ hộ khẩu gia đình chị H lập 30/4/2005 do chị H đứng tên chủ hộ gồm có 3 thành viên: chị H, anh Trần Tuấn A, sinh năm 1993 và anh Trần Thanh T, sinh 1995 là con của chị H. Theo quy định của pháp luật thì đất cấp cho hộ gia đình thì tất cả các thành viên trong hộ có quyền lợi nghĩa vụ ngang nhau. Nhưng anh M và anh Tn không được đưa vào tham gia tố tụng.
Ngày 14/6/1997, ông Nguyễn Văn Q viết giấy chuyển nhượng đất ở cho ông Nguyễn Văn Ph với nội dung ông có 512m2 đất thuộc trạm máy kéo cũ do ông mua của UBND xã Đào Viên năm 1993, ông bán cho ông Nguyễn Văn Ph 1/2 mảnh đất về phía Nam nay là thửa 100, tờ bản đồ 20 xã Đào Viên. Ngày15/6/1997 ông Q tiếp tục viết giấy chuyển nhượng cho vợ chồng bà Nguyễn Thị T, ông Phạm Ngọc Kh diện tích đất còn lại là 331m2.
Muốn xác định được rõ diện tích đất ông Kh, bà T mua của Q bao nhiêu. Cần xác định rõ diện tích đất ông Q mua của UBND xã Đào viên là bao nhiêu. Sau khi mua chuyển nhượng lại cho ông Ph, vợ chồng ông Khg bà T có đúng với diện tích đã mua ban đầu hay không. Tòa án cấp sơ thẩm không đưa ông Q vào tham gia tố tụng để lấy lời khai, xác minh là không đảm bảo quyền lợi của các đương sự.
Việc Tòa án nhân dân huyện Q không đưa anh Trần Văn M, anh Trần Thanh T và ông Q vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là vi phạm thủ tục tố tụng làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự vi phạm khoản 4 Điều 56 BLTTDS.
Vi phạm trong việc không tiến hành đối chất khi vụ án có nội dung mâu thuẫn.
Hồ sơ vụ án thể hiện: Năm 1993, ông Q mua của UBND xã Đào Viên 512m2 đất thuộc khu trạm máy kéo cũ đã giải thể. Ngày 14/6/1997 ông Q đã chuyển nhượng 1/2 thửa đất cho ông Nguyễn Văn Ph người thôn Thành Dền. Ngày 15/6/1997, ông Nguyễn Văn Q chuyển nhượng cho bà Tý 331m2 đất là không phù hợp với diện tích đất ông đã mua của UBND xã Đào Viên.
Hồ sơ vụ án có hai bản phô tô giấy chuyển nhượng đất ở: 01 giấy ông Q chuyển nhượng 256m2 = 1/2 miếng đất có diện tích 512m2 cho ông Nguyễn Văn Ph (bút lục 203,182);01 giấy ông Q chuyển nhượng cho bà T vợ ông Kh 331m2 (bút lục 25). Trong lời khai của vợ chồng ông Kh, bà T cũng xác định ông Q chuyển nhượng 331m2 Các giấy tờ này không có công chứng chứng thực của cơ quan có thẩm quyền không đối chiếu bản chính trong khi có sự mâu thuẫn giữa lời khai của phía nguyên đơn, bị đơn, giấy chuyển nhượng đất ở của ông Q cho bà T, ông Ph. Song Tòa án không tiến hành xác minh lấy lời khai người liên quan và tiến hành đối chất mặc nhiên thừa nhận tính hợp pháp của biên bản giao đất của UBND xã Đào Viên là chưa thuyết phục vi phạm điều 83 và Điều 88 BLTTDS trong việc thu thập và đánh giá chứng cứ.
Vi phạm trong việc không lấy lời khai người được ủy quyền:
Ngày 26/6/2013, anh Trần Tuấn A người cùng đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với chị Nguyễn Thị H lập giấy ủy quyền cho chị H là mẹ đẻ tham gia giải quyết việc tranh chấp đất với vợ chồng ông Phạm Ngọc Kh và bà Nguyễn Thị T tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ngày 9/8/2013, Tòa án thụ lý vụ án theo đơn khởi kiện ngày 25/7/2013 của chị H.
Tòa án xác định anh Trần Tuấn A là nguyên đơn trong vụ án là chấp nhận việc ủy quyền trước khi chị H khởi kiện và Tòa án thụ lý vụ án.
Như vậy, chị H tham gia tố tụng với hai tư cách: Tư cách là nguyên đơn đã ủy quyền cho chị Trần Thị H và tư cách người đại diện cho anh Trần Tuấn A. Trong hồ sơ, chị H không làm bản tự khai, Tòa án không lấy lời khai của chị H với tư cách người đại diện theo ủy quyền của anh Trần Tuấn A, tại phiên tòa ngày 24/9/2015 cả chị H và anh Tuấn A cùng vắng mặt nhưng Tòa án vẫn tiến hành xét xử là chưa đảm bảo về sự có mặt của nguyên đơn tại phiên tòa vi phạm tố tụng.
Về nội dung:
- Theo trình bày của bà T và ông Kh: Sau khi hai bên thỏa thuận, ông Q viết giấy chuyển nhượng và hai bên đến UBND xã đề nghị và đã được UBND xã Đào Viên cắm mốc giao đất cho bà T.
Trong Biên bản ghi lời khai của ông Hoàng Đình Ch - khi đó là cán bộ địa chính của xã, ông Nguyễn Công N là chủ tịch xã và ông Nghiêm Minh H trưởng thôn Thành Dền tiến hành đo đạc đất ở khu máy kéo để làm biên bản bàn giao đất ông Q bán lại cho bà Tý là 331m2lập ngày 26/3/2015 của Công an huyện Quế Võ thì ông Ch, ông N không yêu cầu ông Q cung cấp tài liệu chứng minh diện tích mua của trạm máy kéo là bao nhiêu để làm cơ sở cắm mốc giới bàn giao cho bà T. Tòa án cấp sơ thẩm cũng không tiến hành lấy lời khai của những người này để xác định ông Q có cung cấp các giấy tờ mua khuđất thuôc trạm máy kéo đã giải thể là bao nhiêu nhưng lại dựa trên biên bản bàn giao mốc giới này để bác đơn khởi kiện của chị H là chưa đảm bảo tính khách quan, toàn diện của vụ án.
TT