Khó khăn, vướng mắc khi thực hiện Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự,
Luật tố tụng hành chính năm 2015 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An
Về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng
Khoản 2 Điều 57 Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) 2015 quy định: "Khi Viện trưởng vắng mặt, một Phó Viện trưởng được Viện trưởng ủy nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng, trừ quyền quyết định kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều này. Phó Viện trưởng chịu trách nhiệm trước Viện trưởng về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được ủy nhiệm".
Như vậy, theo quy định của Bộ luật TTDS, chỉ Viện trưởng mới có thẩm quyền ký quyết định kháng nghị, quy định này gây khó khăn cho công tác kháng nghị của VKS, nhất là VKS cấp tỉnh. Vì thời hạn kháng nghị ngắn (07 ngày đối với quyết định, 15 ngày đối với bản án của Tòa án cùng cấp; 10 ngày đối với quyết định; 30 ngày đối với bản án của Tòa án cấp dưới) và còn phụ thuộc vào việc chuyển bản án của VKS cấp huyện, việc chuyển hồ sơ của tòa án cấp sơ thẩm cho Viện kiểm sát có thẩm quyền ban hành kháng nghị; trong khi đồng chí Viện trưởng VKSND cấp tỉnh rất bận rộn và thường xuyên đi công tác, nên có thể xảy ra trường hợp thời hạn kháng nghị sắp hết nhưng đồng chí Viện trưởng đi công tác không thể ký kháng nghị thì đơn vị phải giải quyết thế nào? Nếu Phó Viện trưởng được ủy quyền ký thì là vi phạm nghiêm trọng quy định tại Điều 57 Bộ luật TTDS và Tòa án có cơ sở để không chấp nhận kháng nghị do VKS vi phạm thẩm quyền ban hành kháng nghị.
Về quy định tham gia phiên tòa của Kiểm sát viên
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 232, Khoản 1 Điều 296, Khoản 1 Điều 367 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì: Kiểm sát viên được phân công tham gia phiên tòa, phiên họp (sơ thẩm hoặc phúc thẩm) mà vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành việc xét xử, không hoãn phiên tòa, trừ trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm.
Quy định này gây khó khăn trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự vì: Việc phân công Kiểm sát viên kiểm sát giải quyết vụ án và tham gia phiên tòa được thực hiện khi Tòa án gửi thông báo thụ lý vụ án, hơn nữa quyết định đưa vụ án ra xét xử thời gian nào là do Thẩm phán chủ động quyết định nên thực tế xảy nhiều trường hợp một Kiểm sát viên có 02 hoặc nhiều vụ án cùng lên lịch xét xử cùng một thời điểm, hoặc cũng có trường hợp tuy lịch xét xử Tòa án lên không trùng nhưng do vụ án kéo dài nhiều ngày dẫn đến trùng với thời gian xét xử của vụ án khác mà không có kiểm sát viên dự khuyết, hoặc đến ngày xét xử Kiểm sát viên được phân công ốm không thể tham gia phiên tòa, trong những trường hợp này Kiểm sát viên không tham gia được phiên tòa, việc ra quyết định thay đổi Kiểm sát viên tham gia phiên tòa không thực hiện được, không gửi kịp cho đương sự để họ thực hiện quyền đề nghị thay đổi Kiểm sát viên…. Do đó, Viện kiểm sát không thực hiện được việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa sẽ ảnh hưởng đến chất lượng phiên tòa. Theo chúng tôi hai ngành Tòa án, Viện kiểm sát cần có hướng về nội dung này để tháo gỡ vướng mắc nêu trên.
Quy định về kháng nghị quá hạn
Tại quy định tại Khoản 3 Điều 280 Bộ luật TTDS 2015: "Khi Tòa án nhận được quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát mà quyết định kháng nghị đó đã quá thời hạn quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều này thì Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu Viện kiểm sát giải thích bằng văn bản và nêu rõ lý do". Tuy vậy, Bộ luật TTDS lại không quy định khi đã hết thời hạn nhưng vì lí do khách quan, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị hay không, nếu Bộ luật TTDS quy định Viện kiểm sát có quyền kháng nghị khi đã hết thời hạn trong trường hợp vì lí do, trở ngại khách quan thì quy định như trên là hợp lý. Nếu quy định đã hết thời hạn Viện kiểm sát không có quyền kháng nghị thì quy định như trên là không cần thiết, sẽ nảy sinh nhiều khó khăn, bất cập trong quá trình giải quyết vụ án.
Quy định về phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm
Điều 306 Bộ luật TTDS quy định: "Sau khi kết thúc việc tranh luận và đối đáp, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn phúc thẩm". Quy định như thế này là chưa đầy đủ, dẫn đến cách hiểu và áp dụng khác nhau. Liên ngành VKSND tối cao- TAND tối cao cần có hướng dẫn cụ thể về phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm như quy định phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm (Điều 262 Bộ luật TTDS)
Về việc thụ lí vụ, việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật áp dụng
Nếu trường hợp vụ, việc chưa có điều luật áp dụng; vụ, việc liên quan đến đối tượng ở các địa phương có phong tục tập quán khác nhau mà án lệ, pháp luật tương tự cũng không có để áp dụng... Trường hợp này nên giải quyết như thế nào?
Ví dụ: Trong vụ án li hôn, người chồng yêu cầu người vợ trả lại đồ sính lễ (người chồng và người vợ thuộc 2 dân tộc khác nhau, có phong tục tập quán khác nhau), tập quán dân tộc người chồng thì nếu li hôn người vợ phải trả lại sính lễ, còn tập quán dân tộc người vợ không trả lại tiền sính lễ. Trường hợp này, nên giải quyết như thế nào, Tòa án áp dụng căn cứ nào để giải quyết?
Về việc cấp, tống đạt văn bản tố tụng:
Theo quy định tại Khoản 1, Khoản 3 điều 171 Bộ luật TTDS thì thông báo, giấy báo, giấy triệu tập, giấy mời và quyết định kháng nghị của VKS, các văn bản của cơ quan thi hành án dân sự là văn bản tố tụng phải được cấp, tống đạt cho đương sự. Tuy nhiên, tại Điều 172 về việc "người thực hiện việc cấp, tống đạt văn bản tố tụng" lại không quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc cấp, tống đạt văn bản tố tụng của VKS, của cơ quan thi hành án dân sự.
Do điều luật quy định chưa chặt chẽ nên trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc Viện kiểm sát có giấy mời đương sự thì rất khó khăn trong việc cấp, tống đạt văn bản tố tụng vì sẽ không nhận được sự phối hợp của UBND cấp xã, cơ quan chủ quản nơi đương sự cư trú, làm việc.
Tham gia phiên tòa của Kiểm sát viên
Tại Khoản 2 Điều 25 Luật tố tụng hành chính (LTTHC) năm 2015 quy định“ Viện kiểm sát kiểm sát vụ án hành chính từ khi thụ lý đến khi kết thúc việc giải quyết vụ án; tham gia các phiên tòa, phiên họp của Tòa án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong công tác thi hành bản án, quyết định tòa án; thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị kháng nghị theo pháp luật”. Tuy nhiên tại Khoản 1 Điều 156 Luật TTHC lại quy định về việc có mặt của Kiểm sát viên:“ Kiểm sát viên được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phân công có nhiệm vụ tham gia phiên tòa, nếu vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử”, tại Điều 232 Luật TTHC thì các trường hợp hoãn phiên tòa không có trường hợp vắng Kiểm sát viên nên chúng tôi cho rằng quy định như thế này sẽ rất bất cập và vướng mắc cho Kiểm sát viên khi tham gia tố tụng sẽ không kiểm sát được diễn biến tại phiên tòa để có quan điểm về tố tụng cũng như nội dung vụ án.
Bởi vì, thực tế khối lượng công việc tại địa phương nhiều nên trong một số trường hợp một Kiểm sát viên có 02 hoặc nhiều vụ án cùng lên lịch xét xử cùng một thời điểm hoặc cũng có trường hợp do tham gia xét xử vụ án khác còn kéo dài thời gian nghị án mà không có Kiểm sát viên dự khuyết hoặc đến ngày xét xử Kiểm sát viên được phân công ốm hoặc trên đường tham gia giao thông gặp trở ngại thì trường hợp này Kiểm sát viên phải thực hiện như thế nào.
Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa, phiên họp
Tại Điều 262, Điều 306, Điều 375, Điều 341 BLTTDS; Điều 190, Điều 240, Điều 270 Luật TTHC đều quy định: "Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, Kiểm sát viên phải gửi văn bản phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án" là không phù hợp với thực tiễn xét xử, bởi vì phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa, phiên họp không những phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án mà còn phải căn cứ vào diễn biến trực tiếp tại phiên tòa. Nên bản phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên có thể được chỉnh sửa về nội dung và hình thức văn bản sau khi nắm bắt diễn biến trực tiếp tại phiên tòa. Mặt khác, bản phát biểu còn được đóng dấu của Viện kiểm sát. Vì vậy, nội dung này căn cứ hướng dẫn cụ thể, theo chúng tôi nên để như quy định cũ tại Thông tư số 03, 04 là: trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc phiên tòa, VKS phải gửi cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án.
Vướng mắc về xác định đối tượng khởi kiện vụ án Hành chính
- Theo Khoản 1 Điều 3 Luật tố tụng hành chính 2015 quy định về Quyết định hành chính là "văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hay người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành, quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hay một số đối tượng cụ thể".
Căn cứ tại Khoản 3 Điều 3 Luật tố tụng hành chính 2015 quy định "Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan tổ chức khác hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện hay không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định pháp luật". Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng cho thấy vẫn còn có vướng mắc nhất định trong việc xác định đối tượng khởi kiện như trường hợp cụ thể sau đây:
Trong trường hợp cơ quan Nhà nước ban hành Quyết định hành chính trong hoạt động quản lý Nhà nước (VD: các quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quyết định cưỡng chế...) nhưng người bị cưỡng chế lại không phải là người có tài sản bị cưỡng chế. Người khởi kiện chỉ khởi kiện hành vi cưỡng chế tài sản không khởi kiện quyết định hành chính. Trong trường hợp này xác định đối tượng khởi kiện là Quyết định hành chính hay là hành vi cưỡng chế của cơ quan Nhà nước. Có quan điểm cho rằng, đối tượng khởi kiện được xác định là hành vi hành chính. Theo quan điểm của VKS tỉnh Nghệ An thì trong trường hợp này đối tượng khởi kiện là quyết định hành chính chứ không phải là hành vi hành chính.
Bởi vì, các quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định cưỡng chế... là các quyết định hành chính và quyết định hành chính cá biệt mà cơ quan Nhà nước ban hành đã ban hành trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước và đã được triển khai thực hiện trong phạm vi các quyết định hành chính đã ban hành. Căn cứ Điều 30 LTTHC, Điều 1 Nghị quyết số 02 ngày 29/7/2011 của HĐTP - TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật tố tụng hành chính về xác định đối tượng khởi kiện vụ án hành chính là hành vi hành chính của cơ quan Nhà nước là chưa đảm bảo về điều kiện khởi kiện vụ án hành chính. Vấn đề này đang là vướng mắc trong áp dụng LTTHC.
- Theo Khoản 1 Điều 3 Luật tố tụng hành chính 2015 quy định về quyết định hành chính là "văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hay người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành, quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hay một số đối tượng cụ thể". Như vậy, thì Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có phải là đối tượng khởi kiện của vụ án hành chính không hay là Quyết định cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Bởi vì, có trường hợp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nên không có quyết định cấp đất. Trong trường hợp này, Tòa án có được thụ lý để giải quyết hay không bởi vì Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước ban hành, quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một đối tượng cụ thể.
Trong vụ án khởi kiện yêu cầu huỷ quyết định hành chính, người khởi kiện yêu cầu huỷ các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trong đó Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ được cấp ban đầu, UBND huyện đã thay thế bằng các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khác (trên cơ sở hồ sơ chuyển nhượng, thừa kế, cấp đổi). Trong những lần cấp lại hoặc cấp đổi đó, có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được thể hiện bằng việc phải thu hồi lại tại quyết định về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng trên thực tế Văn phòng đăng ký quyền không thực hiện việc thu hồi theo quyết định và có những Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không có quyết định thay thế hay thu hồi nhưng trong quá trình kê khai làm thủ tục cấp lại đã thể hiện việc căn cứ vào việc cấp cũ để làm thủ tục cấp mới. Như vậy, việc người khởi kiện yêu cầu huỷ tất cả các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó là đúng hay chỉ huỷ giấy chứng nhận cấp sau.
Lúc này, vấn đề cần xác định là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nào là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính? Tất cả các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp trước và sau hay chỉ là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp sau? Có quan điểm cho rằng: Mặc dù đã được cấp lại hoặc cấp đổi nhưng trên thực tế các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này chưa được thu hồi, huỷ bỏ và vẫn đang còn tồn tại và lưu hành (đưa thế chấp tại Ngân hàng) nên vẫn đang là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính nên khi yêu cầu huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải huỷ tất cả các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp trước và cấp sau để đảm bảo tính triệt để. Quan điểm khác lại cho rằng: Mặc dù trên thực tế các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn còn tồn tại nhưng trong quá trình làm thủ tục cấp lại hoặc cấp đổi thì đều căn cứ vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp trước đó để làm thủ tục cấp sau, thậm chí có đã có QĐ thu hồi nhưng do không thực hiện việc thu hồi chứ không phải chưa thu hồi nên khi người khởi kiện yêu cầu huỷ bỏ tất cả các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì đã được thay thế bằng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau nên không còn đối tượng khởi kiện nữa. Do còn vướng mắc trong việc nhận thức về xác định đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính nên VKSND tối cao cần có hướng dẫn cụ thể để áp dụng trong việc thực hiện hoạt động kiểm sát.
Về việc chuyển hồ sơ vụ án cho VKS để xem xét kháng nghị.
Tại khoản 2 Luật TTHC quy định về việc chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát để xem xét kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm quy định: "Ngay sau khi nhận được yêu cầu, Toà án chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát có văn bản yêu cầu ...". Việc quy định như vậy dẫn đến trường hợp các Thẩm phán có nhiều lý do để kéo dài thời gian chuyển hồ sơ, có trường hợp đến ngày cuối cùng của thời hạn kháng nghị mới gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nên đã hạn chế việc thực hiện quyền kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát.
Mặt khác, Luật TTHC không quy định Toà án cấp sơ thẩm (cấp huyện) phải chuyển bản án cho VKS cấp phúc thẩm (cấp tỉnh) mà hoạt động kiểm sát bản án, quyết định của VKS cấp tỉnh thực hiện thông qua việc chuyển bản án, quyết định của VKS cấp huyện. Trong khi đó Điều 206 quy định thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày tuyên án, hoặc giao bản án, niêm yết và Điều 216 Luật TTHC quy định: "Toà án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án...trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày hết thời hạn kháng nghị và hết thời hạn kháng cáo" nên trong nhiều trường hợp Toà án lấy lý do đã chuyển hồ sơ cấp phúc thẩm theo kháng cáo của đương sự để không chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát.
Việc quy định như trên là chưa hợp lý, theo chúng tôi nên quy định về thời gian là: "Trong thời hạn 02 ngày, kể từ khi nhận được yêu cầu của Viện kiểm sát, Toà án chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát có văn bản yêu cầu" .
VKS tham gia phiên họp xét kháng cáo quá hạn
Tại khoản 3 Điều 208 LTTHC quy định: Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có liên quan đến việc kháng cáo quá hạn, ý kiến của đương sự kháng cáo quá hạn, đại diện Viện kiểm sát tại phiên họp, Hội đồng xét kháng cáo quá hạn quyết định theo đa số về việc châp nhận hoặc không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn và phải ghi rõ lý do...". Với quy định như vậy là chưa rõ ràng, Viện kiểm sát có phải phát biểu ý kiến tại phiên họp không? nếu phát biểu thì phát biểu bằng miệng hay là phải gửi bản phát biểu ý kiến như trường hợp VKS tham gia phiên tòa, phiên họp khác./.