Thông qua công tác kiểm sát giải quyết vụ án dân sự “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tranh chấp kiện đòi nhà cho ở nhờ”...
Rút kinh nghiệm trong công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hợp đồng vay tài sản”
Thông qua công tác kiểm sát giải quyết vụ án dân sự “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tranh chấp kiện đòi nhà cho ở nhờ”, giữa nguyên đơn bà Đinh Thị Đắn với bị đơn là ông Đoàn Văn Sẽtheo trình tự phúc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H nhận thấy, Tòa án sơ thẩm có vi phạm bỏ sót người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ chưa đầy đủ, xem xét đánh giá chứng cứ không khách quan, áp dụng pháp luật giải quyết vụ án không đúng, nhưng chưa được Viện kiểm sát cấp sơ thẩm phát hiện kịp thời. Để nâng cao kỹ năng kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự. Vừa qua, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã ban hành thông báo rút kinh nghiệm đối với VKS địa phương trong thành phố. Trang tin điện tử VKSND tối cao trích đăng để bạn đọc tham khảo:
Nội dung vụ án
Ngày 18/7/2008, bà Đinh Thị Đắn và ông Đoàn Văn Sẽ cùng vợ là bà Diệp Thị Hiền lập hợp đồng chuyển nhượng 390m2 đất ở là đất thổ cư tại thửa 982, tờ bản đồ số 04, địa chỉ thửa đất tại thôn Vối, Quảng Cư, Quảng Thanh, TN với giá là 500.000.000 đồng. Hai bên đã làm hợp đồng chuyển nhượng viết tay và có chữ ký của hai bên và người làm chứng là ông Đoàn Văn Minh.
Phía nguyên đơn là bà Đắn cho rằng, khi làm hợp đồng chuyển nhượng đã thanh toán cho vợ chồng ông Sẽ số tiền 230.000.000 đồng, số tiền còn lại 270.000.000 đồng hai bên thống nhất khi nào làm xong thủ tục giao đất thì bà Đắn sẽ thanh toán. Trong khoảng thời gian từ ngày 18/7/2008 đến 27/11/2010, nhiều lần ông Sẽ đến vay tiền bà để xây nhà, tổng số là 344.000.000 đồng (có giấy biên nhận). Như vậy, số tiền bà Đắn cho vợ chồng ông Sẽ vay nhiều hơn số tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất còn lại là 74.000.000 đồng (344.000.000- 270.000.000). Bà Đắn đã nhiều lần đôn đốc vợ chồng ông Sẽ làm thủ tục giao đất cho bà nhưng vợ chồng ông Sẽ không thực hiện như hợp đồng đã cam kết.
Bà Đắn có đơn khởi kiện ngày 07/8/2012 và ngày 12/12/2012 đề nghị Tòa án giải quyết buộc vợ chồng ông Sẽ giao cho bà 390m2 đất đã chuyển nhượng theo hợp đồng và trả cho bà số tiền 74.000.000 đồng là tiền bà đã thanh toán thừa so với hợp đồng chuyển nhượng.
Phía bị đơn ông Sẽ và vợ là bà Hiền thống nhất trình bày: Khoảng năm 2009, vợ chồng ông Sẽ, bà Hiền có nhờ bà Đắn làm giúp thủ tục cấp giấy CNQSDĐ 390m2 tại thửa 982, tờ bản đồ số 04 thôn Vối, Quảng Cư, TN. Để làm thủ tục chuyển nhượng, ông Sẽ giao cho bà Đắn chứng minh thư nhân dân, sổ hộ khẩu gia đình nhưng không hiểu vì lý do gì bà Đắn đã làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 18/7/2008. Ngày 09/9/2011, hộ ông Sẽ đã được UBND huyện TN cấp giấy CNQSDĐ 216m2 tại thửa 982, tờ bản đồ số 04 thôn Vối, Quảng Cư, TN. Sau đó, gia đình ông Sẽ có làm đơn khiếu nại việc cấp giấy CNQSDĐ cho hộ gia đình ông Sẽ. Ngày 18/6/2012, UBND huyện ra Quyết định hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Sẽ vì lý do trình tự thủ tục không đúng. Nay bà Đắn yêu cầu ông phải giao 390m2 đất đã chuyển nhượng thì vợ chồng ông không đồng ý vì vợ chồng ông Sẽ, bà Hiền không ký kết hợp đồng đó, chữ ký trong hợp đồng của ông Sẽ, bà Hiền là giả mạo.
Quá trình giải quyết vụ án
Tại bản ándân sự sơ thẩm số57/2014/DS-ST ngày 30/7/2014 của Tòa án nhân dân huyện TN quyết định:
- Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 18/7/2008 giữa bà Đinh Thị Đắn, ông Đoàn Văn Đó với ông Đoàn Văn Sẽ, bà Diệp Thị Hiền đối với diện tích 390m2 tại thửa đất số 982, tờ bản đồ 04, tại xóm Vối, thôn Quảng Cư, xã Quảng Thanh, huyện TN, Hải Phòng là vô hiệu.
- Ông Đoàn Văn Sẽ và bà Diệp Thị Hiền phải trả lại 230.000.000 đồng và bồi thường số tiền là 900.000.000 đồng cho bà Đinh Thị Đắn và ông Đoàn Văn Đó. Tổng cộng là 1.130.000.000 đồng.
Sau khi xét xử sơ thẩm, các đương sự kháng cáo cụ thể như sau:
- Ngày 04/8/2014 nguyên đơn bà Đinh Thị Đắn kháng cáo phần quyết định của bản án sơ thẩm và đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm: Công nhận Hợp đồng chuyển nhượng đất ngày 18/7/2008 đã lập giữa bà Đinh Thị Đắn, ông Đoàn Văn Đó với bà Diệp Thị Hiền, ông Đoàn Văn Sẽ đối với diện tích 390m2; Yêu cầu ông Sẽ, bà Hiền phải trả lại số tiền 74.000.000 đồng ông Sẽ, bà Hiền đã nhận của bà.
- Ngày 22/8/2014, bị đơn ông Đoàn Văn Sẽ và bà Diệp Thị Hiền kháng cáo phần quyết định của bản án sơ thẩm và đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm: Xem xét hành vi của bà Đắn lừa dối vợ chồng ông khi lập biên bản chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 18/7/2008; Xem xét việc xác định lỗi của vợ chồng bà Đắn khi lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 18/7/2008 do lừa dối vợ chồng ông; Việc định giá tài sản tranh chấp là quá cao, không có cơ sở và không đúng thực tế.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 33/2015/DS-PT ngày 24/7/2015, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đã quyết định: Hủy án sơ thẩm nêu trên và chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm
Việc xác định tư cách tham gia tố tụng chưa đúng và chưa đầy đủ.
Tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện ngoài đơn khởi kiện ngày 07/8/2012 và ngày 12/12/2012 của bà Đinh Thị Đắn còn có đơn khởi kiện của cụ Đinh Văn Gia ghi ngày 06/6/2012 và ngày 18/9/2012 yêu cầu đòi lại 216m2 đất tại thửa số 982.3 tờ bản đồ số 4 tại xóm Vối Quảng Thanh, TN và số nợ 294.000.000 đồng theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/01/2011 giữa ông Đoàn Văn Sẽ, bà Diệp Thị Hiền với cụ Đinh Văn Gia.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bà Đắn cũng thừa nhận cụ Gia là người khởi kiện vụ án và ủy quyền cho bà Đắn tham gia tố tụng, phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ. Ngày 09/7/2012, cụ Đinh Văn Gia có giấy ủy quyền cho bà Đinh Thị Đắn theo khởi kiện tại Tòa án kiện đòi 216 m2 đất và bà Đắn xác nhận việc đã nhận ủy quyền của cụ Gia để tham gia tố tụng tại Tòa án.
Biên bản chuyển nhượng đất ngày 18/7/2008 giữa bà Đắn, ông Đó và ông Sẽ, bà Hiền đã bị hủy bỏ và thay đổi lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/01/2011 và theo hợp đồng mới này cụ Gia là người nhận chuyển nhượng 216m2/390m2 đất thổ cư với vợ chồng ông Sẽ. Do đó, biên bản chuyển nhượng đất ngày 18/7/2008 giữa bà Đắn, ông Đó với ông Sẽ, bà Hiền không còn hiệu lực và bị thay thế bởi hợp đồng lập ngày 10/01/2011. Nên việc bà Đắn khởi kiện theo hợp đồng chuyển nhượng đất ngày 18/7/2008 là không đúng đối tượng và bà Đắn không có quyền khởi kiện vụ án. Theo hồ sơ vụ án không có bất cứ tài liệu nào thể hiện việc cụ Gia đã rút yêu cầu khởi kiện của mình và cũng không có tài liệu nào thể hiện việc bà Đắn khởi kiện vụ án riêng biệt.
Ngoài ra, trong hồ sơ vụ án còn có đơn của anh Nguyễn Xuân Đoàn và Phạm Việt Cường trình bày hai anh đã nhận chuyển nhượng diện tích 216m2 đất của bà Đinh Thị Đắn từ tháng 11/2011 và phía bà Đắn cũng thừa nhận đã chuyển nhượng 216m2 đất giá 630.000.000 đồng cho anh Đoàn, anh Cường nên cần đưa anh Đoàn, anh Cường vào tham gia tố tụng để làm rõ việc này.
Việc Tòa án cấp sơ thẩm không đưa cụ Gia, anh Cường và anh Đoàn vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bỏ sót người tham gia tố tụng, vi phạm khoản 4 Điều 56 BLTTDS.
Việc thu thập chứng cứ chưa đầy đủ, xem xét đánh giá chứng cứ không khách quan, áp dụng pháp luật giải quyết vụ án không đúng.
Về thủ tục định giá: Theo bản kết luận định giá tài sản phần ghi giá thị trường bị tẩy xóa, không ghi giá. Theo biên bản định giá tài sản ghi giá chuyển nhượng thực tế đất tranh chấp là 6.500.000 đồng/m2. Nhưng bản án sơ thẩm áp dụng giá 6.000.000 đồng/m2 để tính bồi thường. Do đó, bị đơn kháng cáo cho rằng Tòa án sơ thẩm không khách quan vì không biết Tòa án sơ thẩm lấy giá 6.000.000 đồng/m2 ở đâu và cho rằng giá đó là quá cao so với thực tế là có cơ sở.
Căn cứ nội dung đơn khởi kiện và các bản khai thấy việc Tòa án sơ thẩm chỉ thụ lý giải quyết tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà không thực hiện thủ tục giải quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài sản mà tách ra giải quyết yêu cầu này bằng vụ án khác, trong khi đó bà Đắn, cụ Gia không có đơn xin rút yêu cầu hoặc đề nghị tách vụ án là giải quyết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và vi phạm thủ tục tố tụng dẫn đến kháng cáo.
Đây là vụ án phức tạp, trong hồ sơ duy nhất có 01 biên bản thu thập chứng cứ đối với cán bộ địa chính xã cung cấp thông tin về sổ mục kê, sổ đăng ký ruộng đất và giá chuyển nhượng đất .
Như vậy việc thu thập chứng cứ chưa đầy đủ, chưa có đủ cơ sở đánh giá đúng bản chất của vụ án mà cấp phúc thẩm không thể khắc phục được.
Từ những sai sót trong việc giải quyết vụ án nêu trên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H thông báo để Viện kiểm sát nhân dân các quận, huyện nghiên cứu, tham khảo và rút kinh nghiệm chung nhằm nâng cao kỹ năng phát hiện vi phạm của Tòa án và nâng cao chất lượng công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự.
TH