CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

The Supreme People’s Procuracy of Viet Nam

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh rút kinh nghiệm giải quyết án dân sự

25/05/2016
Cỡ chữ:   Tương phản
Qua công tác kiểm sát giải quyết án hôn nhân gia đình, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh nhận thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm về chia tài sản chung, tính án phí dân sự có giá ngạch, một số vụ án Viện kiểm sát đã kháng nghị và cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm...

 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh rút kinh nghiệm giải quyết án dân sự

Qua công tác kiểm sát giải quyết án hôn nhân gia đình, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh nhận thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm về chia tài sản chung, tính án phí dân sự có giá ngạch, một số vụ án Viện kiểm sát đã kháng nghị và cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm. Để rút kinh nghiệm chung, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh ban hành thông báo gửi VKSND cấp huyện. Trang tin điện tử VKSND tối cao trích đăng để bạn đọc tham khảo.
Vụ án ly hôn sơ thẩm giữa nguyên đơn chị Lê Thị Phương Anh và bị đơn anh Lê Xuân Sinh; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Lê Ngọc Tân và Lê Văn Tý.
Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Lê Thị Phương Anh và bị đơn là anh Lê Xuân Sinh đã thỏa thuận về tài sản, về chăm sóc nuôi dưỡng và nghĩa vụ cấp dưỡng đối với con chung.
Đối với căn nhà và các công trình phụ trợ: Nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có tranh chấp. Chị Lê Thị Phương Anh trình bày là tài sản chung của vợ chồng. Anh Lê Xuân Sinh và ông Lê Ngọc Tân trình bày toàn bộ chi phí xây nhà và các công trình trên đất là do ông Tân thanh toán. Theo kết quả định giá nhà và các công trình trên đất là 749.000.000 đ. Tổng trị giá tài sản chung là 2.163.240.000đ.
Bản án sơ thẩm số 01/2006/HNGĐ-ST ngày 12/01/2016 của TAND thị xã Kỳ Anh xử:
Về hôn nhân: Áp dụng Điều 55 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Lê Thị Phương Anh và anh Lê Xuân Sinh.
Về con chung: Giao cho chị Lê Thị Phương Anh trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cháu Lê Hoàng Lâm, sinh ngày 23/8/2011, buộc anh Lê Xuân Sinh phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000đ, kể từ tháng 01/2016 đến khi con trưởng thành.
Về tài sản chung: Áp dụng Điểm b Khoản 3 Điều 59, Điều 62, 63 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 giao cho chị Lê Thị Phương Anh được quyền sở hữu giá trị tài sản là 965.600.000đ, giao cho anh Lê Xuân Sinh được sở hữu, sử dụng giá trị tài sản là 1.197.640đ.
Về án phí: Áp dụng các Khoản 2, 4 Điều 131 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a Khoản 1 Điều 24; các Khoản 6, 7, 8, 9 Điều 27 Pháp lệnh án phí và lệ phí Tòa án buộc chị Lê Thị Phương Anh phải nộp 200.000đ án phí ly hôn sơ thẩm, 32.640.000đ án phí dân sự sơ thẩm phần chia tài sản theo giá ngạch. Anh Lê Xuân Sinh phải nộp 47.920.000đ án phí dân sự sơ thẩm phần tài sản được chia theo giá ngạch.
Ngày 25/01/2016, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kỳ Anh ban hành kháng nghị số 69/KNPT đối với Bản án sơ thẩm nêu trên, đề nghị cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm về phần án phí cấp dưỡng nuôi con, án phí chia tài sản. Ngày 06/4/2016, Hội đồng xét xử phúc thẩm Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đã chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát, sửa Bản án sơ thẩm số 01/2006/HNGĐ-ST ngày 12/01/2016 của TAND thị xã Kỳ Anh.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm
Bản án án sơ thẩm số 01/2006/HNGĐ-ST ngày 12/01/2016 của TAND thị xãKỳ Anh vi phạm về tuyên nghĩa vụ phải chịu án phí của các đương sự, cụ thể:Không áp dụng Khoản 10 Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án để buộc anh LêXuân Sinh phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con.
Về nghĩa vụ phải chịu án phí của chị Lê Thị Phương Anh và ông Lê NgọcTân: Theo Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án, chị Lê Thị Phương Anh được hưởng965.000.000đ giá trị tài sản tranh chấp và phải nộp án phí là 40.950.000đ nhưng
Tòa án sơ thẩm tuyên chị phải nộp 32.640.000đ, gây thất thoát cho nhà nước 8.310.000đ. Ông Lê Ngọc Tân đề nghị Tòa án tuyên ngôi nhà trị giá 749.000.000đ là của ông, Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu này. Như vậy mức án phí mà ông Tân phải nộp là 20.000.000đ+4% của 349.000.000đ (mức vượt quá của 400.000.000đ)= 33.960.000đ nhưng Tòa án tuyên ông Tân chỉ phải nộp 12.450.000đ, gây thất thoát cho nhà nước 21.510.000đ.
Vụ án ly hôn sơ thẩm giữa nguyên đơn là anh Dương Công Giang và bị đơn là chị Lê Thị Vân.
Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Dương Công Giang và bị đơn chị Lê Thị Vân đã thỏa thuận về tình cảm, thuận tình ly hôn; về con chung: chưa có; về tài sản: Thống nhất một số tài sản, còn một số tài sản không thống nhất, Hội đồng định giá cấp sơ thẩm đã định giá tài sản gồm nhà ở, công trình phụ, tiền nộp thuế tài quầy 21, chợ Hà Tĩnh tổng cộng là 209.556.000đ. Về nợ chung: Thống nhất anh chị nợ anh Nguyễn Đình Tráng 10.000.000đ, anh Lê Văn Thọ 10.000.000đ, chị Lê Thị Toàn 10.000.000đ.
Bản án sơ thẩm số 128/2015/HNGĐ-ST ngày 24/12/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Tĩnh xử về phần tài sản chung có tranh chấp: Giao ngôi nhà và các công trình phụ cho anh Dương Công Giang sở hữu. Anh Giang phải đưa lại tiền chênh lệch cho chị Lê Thị Vân số tiền 104.778.000đ và 5.000.000đ tiền chênh lệch nợ, tổng là 109.778.000đ. Anh Giang phải có trách nhiệm trả nợ cho anh Nguyễn Đình Tráng 10.000.000đ. Tổng trị giá tài sản sau khi trừ nợ chung anh Giang được hưởng là 89.778.000đ.
Chị Lê Thị Vân được nhận số tiền chênh lệch tài sản ở anh Dương Công Giang là 104.778.000đ và 5.000.000đ tiền chênh lệch nợ. Chị phải trả nợ cho anh Lê Văn Thọ 10.000.000đ và chị Lê Thị Toàn 10.000.000đ. Tổng tài sản sau khi trả nợ chị Vân được hưởng là 89.778.000đ.
Ngày 19/01/2016, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh ban hành kháng nghị phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm nêu trên. Ngày 07/4/2016, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, sửa bản án sơ thẩm số 128/2015/HNGĐ-ST ngày 24/12/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Tĩnh.
Về tài sản chung: Tòa án cấp sơ thẩm xác định “Hợp đồng thuê quầy kinh doanh” được xác lập giữa chị Lê Thị Vân và ban quản lý chợ Hà Tĩnh (quầy hàng rau), thời hạn thuê 10 năm kể từ ngày 22/8/2006 đến ngày 22/8/2016, giá trị hợp đồng là 6.310.000đ là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Đến thời điểm Tòa án cấp sơ thẩm xét xử (ngày 24/12/2015), chị Lê Thị Vân đã sử dụng quầy hàng trên được 9 năm 4 tháng, còn 8 tháng nữa sẽ hết hạn hợp đồng. Giá trị hợp đồng quy đổi bằng tiền còn 420.644đ. Tòa án không tính số tiền quy đổi này vào tài sản chung của anh Giang chị Vân mà nhận định và tuyên xử toàn bộ giá trị hợp đồng là 6.310.000đ, theo đó, mỗi người được hưởng ½ giá trị hợp đồng 3.155.000đ là chưa chính xác, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
Về án phí: Theo quy định tại Khoản 2, Điều 131 Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 7, Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án; Khoản 2 Điều 13 Nghị quyết số 01/2012/NQ-HĐTP ngày 13/6/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về án phí, lệ phí của Tòa án thì anh Giang và chị Vân phải chịu án phí trên số tài sản được chia là 109.778.000đ, nhưng bản án sơ thẩm buộc anh Giang và chị Vân chịu án phí sơ thẩm trên số tài sản được hưởng là 89.778.000đ (sau khi đã trừ các khoản nợ chung) là không chính xác.
TH
Tìm kiếm