Thông qua công tác kiểm sát trực tiếp việc tuân theo pháp luật trong việc giám sát, giáo dục người được hưởng án treo và người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ đối với Ủy ban nhân dân xã, phường, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk ban hành kiến nghị gửi Chủ tịch UBND tỉnh chỉ đạo công tác thi hành án treo...
VKSND tỉnh Đắk Lắk kiến nghị khắc phục vi phạm trong công tác thi hành án treo, cải tạo không giam giữ
Thông qua công tác kiểm sát trực tiếp việc tuân theo pháp luật trong việc giám sát, giáo dục người được hưởng án treo và người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ đối với Ủy ban nhân dân xã, phường, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk ban hành kiến nghị gửi Chủ tịch UBND tỉnh chỉ đạo công tác thi hành án treo, cải tạo không giam giữ trên địa bàn được thực hiện đúng quy định của pháp luật. Trang tin điện tử VKSND tối cao trích đăng để bạn đọc tham khảo:
Khi nhận được hồ sơ thi hành án do cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện chuyển đến, đa số Ban công an xã, phường đã vào sổ theo dõi, tham mưu cho Chủ tịch UBND phân công người trực tiếp giám sát, giáo dục người bị kết án và phối hợp với tổ chức đoàn thể của địa phương để thực hiện hiệu quả công tác này; Ủy ban cấp xã, phường tiến hành mở sổ theo dõi người có án treo và cải tạo không giam giữ, yêu cầu người chấp hành án thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình; đề ra các biện pháp giáo dục, phòng ngừa khi người đó có dấu hiệu vi phạm pháp luật; phối hợp với gia đình, cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ, người được hưởng án treo; phối hợp với Cơ quan thi hành án dân sự thực hiện khấu trừ một phần thu nhập của người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ, người được hưởng án treo theo quyết định của Tòa án.
Đa số cán bộ làm công tác giám sát, giáo dục người được hưởng án treo, cải tạo không giam giữ không phải là cán bộ chuyên trách và chưa được tập huấn chuyên sâu Luật thi hành án hình sự nhưng đã phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Bên cạnh những ưu điểm, công tác giám sát, giáo dục người được hưởng án treo, cải tạo không giam giữ của UBND cấp xã, phường còn một số vi phạm, thiếu sót như:
Chưa thực hiện đúng nhiệm vụ của UBND cấp xã, phường trong việc giám sát, giáo dục người được hưởng án treo và cải tạo không giam giữ như: có UBND xã không mở sổ theo dõi (UBND xã Ea Nam, huyện EaHLeo); có 17 trường hợp không có quyết định phân công người trực tiếp giám sát, giáo dục người được hưởng án treo, thi hành án phạt cải tạo không giam giữ (xã Ea Lê, huyện Ea Súp; UBND phường Đoàn kết và phường An Bình, thị xã Buôn Hồ v.v…), vi phạm Điểm b, Khoản 1 Điều 63 và Điểm b, Khoản 1 Điều 74 Luật thi hành án hình sự năm 2010.
03 tháng một lần người được hưởng án treo và cải tạo không giam giữ chưa thực hiện nghĩa vụ nộp bản tự nhận xét về việc chấp hành pháp luật cho UBND xã phường nhưng không được nhắc nhở (có 38 trường hợp, như: UBND xã Ea Son, UBND xã Quảng Tiến, UBND xã Ea Nam…), vi phạm Điểm c, Khoản 1 Điều 63 và Điểm c, Khoản 1, Điều 74 Luật thi hành án hình sự năm 2010.
Công tác phối hợp giữa chính quyền địa phương với gia đình người chấp hành án phạt tù cho người chấp hành án phạt tù cho hưởng án treo trong việc giám sát, giáo dục người được hưởng án treo chưa chặt chẽ, người chấp hành án án treo đi khỏi địa phương nhưng UBND cấp xã không biết nên không theo dõi, giám sát được (UBND xã Krông Buk, huyện Krông Pak), vi phạm Điểm e, Khoản 1 Điều 63 Luật thi hành án hình sự năm 2010.
Người được hưởng án treo trong thời gian chấp hành án có nhiều tiến bộ, có đủ điều kiện để rút ngắn thời gian thử thách nhưng UBND xã không lập hồ sơ đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét rút ngắn thời gian thử thách (UBND xã Bình Thuận, thị xã Buôn Hồ), vi phạm Điểm g, Khoản 1 Điều 63 Luật thi hành án hình sự năm 2010.
Chưa thực hiện đúng trách nhiệm trong việc bổ sung hồ sơ thi hành án treo, cải tạo không giam giữ theo quy định của Luật thi hành án dân sự: Hồ sơ không có bản tự nhận xét của người được hưởng án treo và cải tạo không giam giữ; không có bản nhận xét của người được giao trực tiếp giám sát giáo dục người được hưởng án treo và cải tạo không giam giữ (UBND xã Ea Nam, huyện Ea Hleo), vi phạm Điểm b, Điểm c, Khoản 1, Điều 68; Điểm b, điểm c, Khoản 1, Điều 80, Luật thi hành án hình sự năm 2010.
Chưa thực hiện việc bàn giao hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật: Có 42 bị án được hưởng án treo và cải tạo không giam giữ đã chấp hành xong hình phạt nhưng UBND xã không bàn giao hồ sơ cho Cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện để xem xét cấp giấy chứng nhận đã chấp hành xong hình phạt cho các bị án (xã Ea Bhok, huyện Cư Kuin; xã Vụ Bổn và Ea Kly, huyện Krông Păc…), vi phạm Khoản 3, Điều 73, Luật thi hành án hình sự năm 2010.
Chưa thực hiện xử phạt hành chính theo thẩm quyền: Người được hưởng án treo và thi hành án cải tạo không giam giữ không có mặt theo đúng yêu cầu của UBND xã, không chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ của mình trong việc thi hành án, vi phạm Điểm k, Khoản 1, Điều 63; Điểm l, Khoản 1, Điều 74 Luật thi hành án hình sự năm 2010.
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk kiến nghị Chủ tịch UBND tỉnh:
Chỉ đạo Ủy ban nhân dân các cấp và cơ quan thi hành án hình sự thực hiện đúng nhiệm vụ của UBND cấp xã, phường trong việc giám sát, giáo dục người người được hưởng án treo, thi hành án phạt cải tạo không giam giữ theo đúng quy định của pháp luật. Giao công tác giám sát, giáo dục người được hưởng án treo, thi hành án phạt cải tạo không giam giữ cho Trưởng Công an cấp xã, phường chịu trách nhiệm tham mưu giúp UBND cấp xã, phường ban hành quyết định phân công người trực tiếp giám sát, giáo dục người được hưởng án treo, thi hành án phạt cải tạo không giam giữ theo quy định tại Điểm b, Khoản 1, Điều 63; điểm b, Khoản 1, Điều 74, Luật thi hành án năm 2010.
Lập hồ sơ theo dõi người được hưởng án treo, án phạt cải tạo không giam giữ đầy đủ, chuyển giao hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền để xem xét, cấp giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt cho bị án kịp thời.
Lập hồ sơ đề nghị Cơ quan thi hành án Công an cấp huyện để xem xét rút ngắn thời gian thử thách cho người được hưởng án treo, thi hành án phạt cải tạo không giam giữ khi họ có đủ điều kiện theo quy định tại Điểm g, Khoản 1, Điều 63; điểm h, Khoản 1, Điều 74 Luật thi hành án hình sự năm 2010.
Thực hiện trách nhiệm xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điểm k, Khoản 1, Điều 63; Điểm 1, Khoản 1, Điều 74 Luật thi hành án hình sự năm 2010.
T.T