Thông qua công tác kiểm sát các quyết định, Bản án sơ thẩm và kiểm sát xét xử theo thủ tục phúc thẩm vụ án dân sự “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu” giữa: Nguyên đơn: Bà Vũ Thị Hiền; các bị đơn: Ông Ngô Ngọc Quang và bà Nguyễn Thị Thành; Người có QL&NV liên quan: Ông Đoàn Thái Dương. Xét thấy Bản án sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, gây thiệt hại cho quyền lợi của nguyên đơn...
VKSND tỉnh Hà Giang rút kinh nghiệm vụ án dân sự bị cấp phúc thẩm hủy án
Thông qua công tác kiểm sát các quyết định, Bản án sơ thẩm và kiểm sát xét xử theo thủ tục phúc thẩm vụ án dân sự “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu” giữa: Nguyên đơn: Bà Vũ Thị Hiền; các bị đơn: Ông Ngô Ngọc Quang và bà Nguyễn Thị Thành; Người có QL&NV liên quan: Ông Đoàn Thái Dương. Xét thấy Bản án sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, gây thiệt hại cho quyền lợi của nguyên đơn, VKSND tỉnh Hà Giang đã kháng nghị Bản án sơ thẩm theo trình tự phúc thẩm.
Ngày 12 tháng 11 năm 2015 VKSND tỉnh Hà Giang (Phòng 9) ban hành Thông báo rút kinh nghiệm để Viện kiểm sát nhân dân các huyện, thành phố tham khảo, vận dụng trong quá trình kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự như sau:
Nội dung vụ án: Theo đơn khởi kiện và bản tự khai của chị Vũ Thị Hiền: Năm 1994 vợ chồng ông bà Ngô Ngọc Quang, Vũ Thị Thành nhờ chồng chị là anh Đoàn Thái Dương thế chấp bìa đỏ của bà Đào Thị Hồng (mẹ chồng chị Vũ Thị Hiền) để vay ngân hàng 18.000.000đ, thời hạn vay 3 năm, khi đến thời hạn trả nợ ông bà Quang, Thành không có đủ tiền trả nợ. Đến tháng 6/2002 ông bà Quang, Thành chưa trả được ngân hàng cả gốc lẫn lãi, vì vậy ngân hàng quyết định phát mại mảnh đất của mẹ chồng chị Vũ Thị Hiền, do không lo được tiền trả ngân hàng ông bà Quang, Thành đã bán cho gia đình chị Vũ Thị Hiền 5m đất bám mặt đường quốc lộ với chiều sâu 30m (tổng diện tích là 150m2) với số tiền là 20.000.000đ. Sau khi 2 bên gia đình nhất trí ông bà Quang, Thành đã mời địa chính thị trấn Vị Xuyên là anh Nguyễn Hữu Việt, ông Nguyễn Vinh Hạnh (tổ phó tổ 12), ông Hoàng Văn Chung, ông Doãn Đức Quang hàng xóm làm chứng cùng 2 bên gia đình thống nhất đo đạc và làm giấy chuyển nhượng ghi rõ các phía Đông, Tây, Nam, Bắc giáp các hộ liền kề….Nhưng từ đó đến nay gia đình ông Quang, bà Thành vẫn không làm thủ tục chuyển nhượng cho gia đình chị Vũ Thị Hiền.
Năm 2008 chị và anh Đoàn Thái Dương ly hôn, chia tài sản cho chị và 2 con là miếng đất mua của ông bà Quang-Thành, chị đã xuống nhiều lần gặp ông bà Quang Thành để làm thủ tục chuyển nhượng nhưng ông bà không hợp tác...đến tháng 9/2014 ông bà Quang, Thành đã xây móng lên miếng đất của chị, chị có yêu cầu ông Quang dừng thi công và làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất cho gia đình chị theo đúng như sơ đồ mà địa chính Thị trấn Vị Xuyên đã vẽ trong giấy chuyển nhượng đất mà gia đình 2 bên đã thống nhất, nếu gia đình ông bà Quang, Thành không làm thủ tục chuyển nhượng đất cho gia đình chị thì ông Quang, bà Thành phải trả theo giá đất thị trường hiện nay là 80.000.000/1m x 5m (bám đường quốc lộ) chiều sâu 30m = 150m2 (Tổng diện tích) với số tiền là 5m x 80.000.000 = 400.000.000đ (Bốn trăm triệu đồng).
Quyết định của Bản án sơ thẩm: Chấp nhận đơn khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu của bà Vũ Thị Hiền. Tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Ngô Ngọc Quang, bà Nguyễn Thị Thành với ông Đoàn Thái Dương, bà Vũ Thị Hiền lập ngày 07/06/2002 là hợp đồng vô hiệu. Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí; chi phí định giá tài sản; quyền kháng cáo và quyền thi hành án của các đương sự.
Những vấn đề cần được rút kinh nghiệm
- Kiểm sát việc khởi kiện để xác định quan hệ tranh chấp: Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp không chính xác: Bản án số 03/2015/DS-ST ngày 10/6/2015 của Tòa án nhân dân huyện Vị Xuyên xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu” là chưa chính xác, vì theo đơn khởi kiện và bản tự khai ngày 11/11/2014 chị Hiền có yêu cầu “Yêu cầu ông Quang phải làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất cho gia đình tôi đúng như sơ đồ mà địa chính thị trấn Vị Xuyên đã vẽ trong Giấy chuyển nhượng đất mà 2 bên đã thống nhất nếu gia đình ông Quang bà Thành không làm thủ tục chuyển nhượng đất cho gia đình tôi thì ông Quang bà Thành phải trả theo giá đất thị trường hiện nay là 80.000.000đ/1m X 5m (bám mặt đường quốc lộ) chiều sâu 30m = 150m2 (tổng diện tích) với số tiền là 5m X 80.000.000 = 400.000.000đ (Bốn trăm triệu đồng)”. Quan hệ tranh chấp trong vụ án này xác định là quan hệ “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” mới chính xác.
- Kiểm sát việc thu thập chứng cứ xác định việc chuyển nhượng diện tích đất 150m2: Về xác định diện tích đất tranh chấp theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Đơn khởi kiện, bản tự khai của bà Vũ Thị Hiền cho rằng chị và anh Đoàn Thái Dương mua của ông Ngô Ngọc Quang và bà Nguyễn Thị Thành diện tích đất 150m. Giấy chuyển nhượng đất ngày 17/6/2002 ghi rõ “Hai bên thống nhất chuyển nhượng đất cho nhau: Bám mặt đường quốc lộ 2 Hà Giang-Hà Nội là 5m (Năm mét); Phía Đông giáp: Đất ông Dụng 5m (năm mét); Phía Tây giáp: Quốc lộ 2; Phía Bắc: giáp ông Mại Việt Lâm; Phía nam giáp ông Quang; Bề sau dài từ tim đường vào là 30m (Ba mươi mét); Tổng diện tích là 150m (Một trăm năm mươi mét); Tôi đãnhận đủ số tiền trên và ông Dương nhận số đất trên….”. Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 22/04/2015 Tòa án cấp sơ thẩm xác định diện tích đất tranh chấp: “Phía Bắc giáp đất ông Mại Việt Lâm có chiều dài 15m, phía Nam giáp đất ông Quang có chiều dài là 15m, phía Đông giáp đất ông Quang có chiều rộng là 5m, phía Tây giáp đường quốc lộ II (cách tim đường 15m) có chiều rộng là 5m, tổng diện tích đất là 75m2…” Như vậy khi xem xét thẩm định tại chỗ diện tích đất tranh chấp có 75m2 (thiếu so với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và Giấy chuyển nhượng đất ngày 17/6/2002 là 75m2), Tòa án cấp sơ thẩm không làm rõ tại sao diện tích đất tranh chấp chênh lệch thiếu 75m2 là thiếu sót không đảm bảo quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn bà Vũ Thị Hiền.
Về xác định địa chỉ thửa đất: Đơn khởi kiện, bản tự khai của chị Hiền, Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 07/06/2002; Quyết định xem xét thẩm định tại chỗ ngày 01/04/2015, Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 22/4/2015 của Tòa án nhân dân huyện Vị Xuyên chỉ nói chung đến diện tích đất tranh chấp có địa chỉ thửa đất tổ 12, thị trấn Vị Xuyên, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang. Tòa án cấp sơ thẩm không yêu cầu đương sự cung cấp chứng cứ để xác định diện tích đất tranh chấp đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chưa? hiện ai là người đang sử dụng? số lô, số thửa, xác định loại đất tranh chấp…mà cơ quan quản lý là UBND huyện Vị Xuyên (quy định tại khoản 3 Điều 23 Luật đất đai 2013; Điều 4 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai) và việc thực hiện nghĩa vụ chung của người sử dụng đất (quy định tại Điều 170 Luật đất đai 2013). Vi phạm Điều 85 BLTTDS và khoản 4 Điều 2 Nghị quyết HĐTP số 04/2012/NĐ-HĐTP ngày 03/12/2012 của HĐTP Tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn thi hành một số quy định về “chứng minh và chứng cứ” của Bộ luật tố tụng dân sự.
Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 22/4/2015 của Tòa án nhân dân huyện Vị xuyên xác định: “Tổng diện tích đất là 75m2 (trong đó đất đã làm nhà ở là 37,5m2, diện tích đất ao là 37,5m2); Một ngôi nhà xây cấp 4, lợp tôn, xây dựng năm 2014 với tổng diện tích là 68,9m2…… Diện tích 01 ngôi nhà xây trên diện tích đất đang tranh chấp là 9,5m-5m = 4,45m (Là đất của ông Quang), 5m là diện tích đất tranh chấp giữa chị Hiền với ông Quang, bà Thành theo Giấy chuyển nhượng đất lập ngày 07/6/2002” Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ việc các đương sự giao, nhận đất cụ thể như thế nào (đã giao, nhận hay chưa), giao-nhận từ đâu đến đâu? Hiện trạng đất, giá trị quyền sử dụng đất khi chuyển nhượng đến thời điểm khởi kiện có thay đổi (tăng hoặc giảm) không? (Giấy chuyển nhượng đất ngày 07/6/2002 không ghi có đất ao, biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 22/4/2015 của TAND huyện Vị Xuyên trên đất có nhà, có đất ao) ….Để làm căn cứ giải quyết vụ án và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu quy định tại Điều 137 BLTTDS và hướng dẫn tại điểm c.3 tiểu mục 2.3 mục 2 phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của HĐTP Tòa án nhân dân tối cao (gọi tắt là Nghị quyết số 02/2004) Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình.
Ngoài ra phần quyết định của bản án Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: “Chấp nhận đơn khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu của bà Vũ Thị Hiền” là không đúng với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Vũ Thị Hiền, vì đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án bà Hiền yêu cầu ông bà Quang-Thành thực hiện đúng theo Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất ghi ngày 07/6/2002, nếu ông bà Quang-Thành không thực hiện theo chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa hai bên, thì ông bà Quang-Thành phải bồi thường tiền chênh lệch giá trị đất tại thời điểm Tòa án giải quyết. Bà Hiền không yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu nên phần tuyên nêu trên của Tòa án cấp sơ thẩm là không chính xác.
Toà án Phúc thẩm đã Chấp nhận kháng nghị của VKSND tỉnh Hà Giang: Hủy bản án dân sự sơ thẩm để giải quyết lại vụ án theo quy định của pháp luật.
Từ những vi phạm nêu trên, VKSND tỉnh Hà Giang (Phòng 9) thông báo đến VKSND các huyện, thành phố để rút kinh nghiệm chung, góp phần nâng cao chất lượng trong công tác kháng nghị của Viện kiểm sát qua kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự trong thời gian tới./.
Thu Nguyệt