Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm tại Đà Nẵng có Kiến nghị số số 205/KN-VPT2, ngày 10/5/2011. Trang tin điện tử Viện kiểm sát nhân dân tối cao trích đăng nội dung để bạn đọc cùng tham khảo.
Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm
tại Đà Nẵng kiến nghị cơ quan Cảnh sát điều tra khắc phục
vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra
Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm tại Đà Nẵng có Kiến nghị số số 205/KN-VPT2, ngày 10/5/2011. Trang tin điện tử Viện kiểm sát nhân dân tối cao trích đăng nội dung để bạn đọc cùng tham khảo.
- Vi phạm Điều 132 Bộ luật Tố tụng Hình sự
Vụ án được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Buôn Ma Thuột khởi tố vụ án, khởi tố bị can ngày 17/02/2009 để điều tra. Đến ngày 02/6/2009 chuyển lên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk điều tra theo thẩm quyền. Nhưng các Bản tự khai của bị can Lê Văn Kế, bản tự khai của bị can Đỗ Thị Trân Châu, bản tự khai của bị can Nguyễn Anh Minh Điều tra viên được phân công điều tra không ký vào các bản tự khai nói trên.
Việc Điều tra viên không ký vào các bản tự khai của các bị can nêu trên là vi phạm khoản 2 Điều 132 Bộ luật Tố tụng Hình sự đã qui định, đó là: “Trong trường hợp bị can tự viết lời khai thì Điều tra viên và bị can cùng ký xác nhận tờ khai đó”.
- Vi phạm Điều 131 Bộ luật Tố tụng Hình sự
* Ngày 17/02/2009, Điều tra viên Huỳnh Minh Cảnh đã được phân công điều tra vụ án. Nhưng ngày 25 và 28/02/2009, cán bộ Điều tra Nguyễn Văn Tuân vẫn lập Biên bản ghi lời khai đối với các bị can.
Việc Điều tra viên không tiến hành hỏi cung bị can ngay sau khi đã khởi tố bị can, mà để cán bộ điều tra lập biên bản ghi lời khai Là vi phạm đoạn l khoản l Điều 131 BLTTHS đã quy định: “Việc hỏi cung bị can phải do Điều tra viên tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can. Có thể hỏi cung bị can tại nơi tiến hành điều tra hoặc tại nơi ở của người đó".
* Tại biên bản hỏi cung đối với bị can Đỗ Thị Trân Châu, lúc 7h45 ngày 8/7/2009, kết thúc lúc 10h45 cùng ngày (BL số 476, 477), do Điều tra viên Tô Mạnh Tường tiến hành. Nhưng tại biên bản hỏi cung đối với bị can Lê Văn Kế , lúc 8h00 ngày 8/72009 kết thúc lúc 10h30 cùng ngày (BL số 284, 285), cũng do Điều tra viên Tô Mạnh Tường tiến hành.
Biên bản hỏi cung đối với bị can Đỗ Thị Trân Châu, lúc 14h00 ngày 8/72009 kết thúc lúc 16h00 cùng ngày (BL số 478, 479), do Điều tra viên Tô Mạnh Tuờng tiến hành. Nhưng tại biên bản hỏi cung đối với bị can Lê Văn Kế, lúc 14h00 ngày 8/7/2009, kết thúc lúc l6h20 cùng ngày (BL số 286, 287), cũng do Điều tra viên Tô Mạnh Tường tỉến hành.
Việc Điều tra viên Tô Mạnh Tường tiến hành hỏi cung 02 bị can một lúc, cùng một thời gian, cùng một địa điểm (trại tạm giam Công an tỉnh Đăk Lăk) là vi phạm đoạn 3 khoản l Điều 131 BLTTHS: "Nếu vụ án có nhiều bị can thì hỏi riêng từng người và không để họ tiếp xúc với nhau"
- Vi phạm Điều 95 BLTTHS:
Tại biên ban hỏi cung bị can Lê Văn Kế (BL 280, 282) Điều tra viên Huỳnh Minh Cảnh có ký trong biên bản, nhưng ở phần thủ tục của biên bản không ghi Điều tra viên Cảnh tiến hành tố tụng, các biên bản hỏi cung bị can Lê Văn Kế (BL 284 - 301 gồm 08 bản cung) Điều tra viên Tô Mạnh Tường có ký vào biên bản, nhưng ở phần thủ tục của biên bản không ghi Điều tra viên Tường tiến hành tố tụng.
Việc không ghi tên Điều tra viên Huỳnh Minh Cảnh, Tô Mạnh Tường trong biên bản hỏi cung là vi phạm khoản l Điều 95 BLTTHS “Khi tiến hành các hoạt động tố tụng, bắt buộc phải lập biên bản theo mẫu quy định thống nhất. Trong biên bản ghi rõ địa điểm, ngày, giờ, tháng năm tiến hành tố tụng, thời gian bắt đầu và thời gian kết thúc, nội dung của hoạt động tố tụng, những người tiến hành, tham gia hoặc có liên quan đến hoạt động tố tụng, những khiếu nại, yêu cầu hoặc đề nghị của họ''.
- Vi phạm Điều 126 BLTTHS:
Quyết định khởi tố bị can Nguyễn Anh Minh số 195 ngày 20/02/2009 được Viện kiểm sát phê chuẩn cùng ngày. Nhưng đến ngày 05/3/2009 cơ quan điều tra mới tiến hành giao quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can cho bị can Nguyễn Anh Minh (13 ngày).
Quyết định khởi tố bị can Đỗ Thị Trân Châu số 241 ngày 18/03/2009, đuợc Viện kiểm sát phê chuẩn ngày 20/03/2009. Nhưng đến ngày 26/3/2009 Cơ quan điều tra mới tiến hành giao quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can cho bị can (6 ngày).
Việc giao quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can cho các bị can như đã nêu trên là vi phạm Khoản 6 Điều l26 BLTTHS ''Cơ quan điều tra phải giao ngay quyết định khởi tố bị can của mình hoặc quyết định khởi tố bị can của Viện kiểm sát và giải thích quyền, nghĩa vụ cho bị can quy định tại Điều 49 của Bộ luật này. Sau khi nhận đuợc quyết định phê chuẩn hoặc quyết định huỷ bỏ quyết định khởi tố bị can của Viện kiểm sát Cơ quan điều tra phải giao ngay cho người đã bị khởi tố''.
- Vi phạm Điều 35 BLTTHS:
Trong hồ sơ vụ án có 3 biên bản đối chất (BL 2224 - 2227 ngày 01/11/2009; BL 2228 ngày 02/11/2009; BL 2236 - 2239 03/11/2009) do Diều tra viên Nguyễn Hoành Long (Công an tỉnh Đăk Lăk) tiến hành. Nhưng hồ sơ vụ án chỉ có quyết định phân công các Điều tra viên Nguyễn Minh Cảnh (Công an Tp Buôn Ma Thuột) và Điều tra viên Tô Mạnh Tường (Công an tỉnh Đăk Lăk) điều tra vụ án, không có quyết định phân công Điều tra viên Nguyễn Hoành Long điều tra vụ án.
Việc Điều tra viên Nguyễn Hoành Long không được phân công điều tra vụ án, nhưng vẫn tiến hành đối chất, là vi phạm Điều 35 BLTTHS “Điều tra viên được phân công điều tra vụ án hình sự có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: a, Lập hồ sơ vụ án hình sự,… đ, Tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra".
Những vi phạm nêu trên của Điều tra viên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Buôn Ma Thuột và của điều tra viên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk có phần trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột và của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đăk Lăk trong công tác kiểm sát điều tra./.
Thu Hương.