CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

The Supreme People’s Procuracy of Viet Nam

Thông báo rút kinh nghiệm về việc xác định đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính

16/04/2019
Cỡ chữ:   Tương phản
Thông qua kết quả phiên họp phúc thẩm vụ án hành chính, VKSND cấp cao tại Đà Nẵng thông báo rút kinh nghiệm về việc xác định đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính...

Thông qua kết quả phiên họp phúc thẩm vụ án hành chính, VKSND cấp cao tại Đà Nẵng thông báo rút kinh nghiệm về việc xác định đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính trong công tác kiểm sát giải quyết vụ án “Khởi kiện Quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”.

Người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị Đ

Địa chỉ: Thông Mỹ Hòa, xã Xuân Cảnh, thị xã S, tỉnh P

Người bị kiện: Chủ tịch UBND thị xã S

Địa chỉ: Khu phố Long Hải, phường Xuân Phú, thị xã S, tỉnh P

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

+ UBND xã X, thị xã S

+ Ông Nguyễn Văn Tr, sinh năm 1964, trú tại: Thôn Hòa Mỹ, xã Xuân Cảnh, thị xã S, tỉnh P

Nội dung vụ án

Người khởi kiện bà Nguyễn Thị Đ trình bày:

Trước đây, cha mẹ tôi là Nguyễn L và Phạm Thị D (đã chết) có tạo lập được một mảnh vườn dừa tại thôn Hòa Hiệp, Xuân Thịnh, thị xã S, tỉnh P có diện tích là 8 sào, tứ cận: Đông giáp biển; Tây giáp ruông Chùa; Nam giáp ruộng Đinh dùi; Bắc giáp Quốc lộ 1A.

Cha mẹ tôi có đầy đủ giấy tờ nguồn gốc phần diện tích đất này và sử dụng đến năm 1977 thì chính quyền địa phương đã thương lượng với gia đình để mượn làm trạm chế biến, thu mua tài sản. Vì phục vụ cho việc phát triển kinh tế địa phương nên gia đình tôi đã đồng ý và hai bên có thỏa thuận là khi nào Nhà nước hết sử dụng làm công ty thì trả lại cho gia đình tôi. Đến năm 1999, Nhà nước giải thể công ty hải sản và thu gom hết tài sản bỏ hoang vườn dừa. Gia đình tôi nhiều lần viết đơn để yêu cầu chính quyền địa phương trả lại đất nhưng UBND huyện S (nay là UBND thị xã S vẫn không xem xét giải quyết). Việc khiếu nại của gia đình chúng tôi liên tục qua nhiều cấp, nhiều cơ quan khác nhau nhưng không có kết luận giải quyết triệt để mà ngược lại UBND huyện còn sử dụng mặt bằng để giao đất xây dựng Bưu điện văn hóa xã năm 2001, xây dựng trường mẫu giáo thôn H năm 2014, và trường tiểu học X năm 2009. Việc khiếu nại kéo dài từ xã đến huyện, đến khởi kiện Tòa án các cấp nhưng sau đó đều có hướng dẫn tôi rút đơn để xem xét giải quyết nhưng không thực hiện.

Đến ngày 07/11/2016, sau nhiều lần giải quyết khiếu nại, khiếu kiện, UBND huyện S có văn bản số 1959/UBND-NC trả lời khiếu nại chung cả tôi (Nguyễn Thị Đ) và hộ ông Nguyễn Văn B, ông Đinh Văn C.

Nội dung công văn giải quyết khiếu nại: “Không công nhận toàn bộ nội dung yêu cầu theo đơn khiếu nại” với lý do là cha mẹ chúng tôi và các ông C, M đã nhất trí hiến toàn bộ diện tích đất để huyện làm trạm chế biến thu mua hải sản còn cây cối, hoa màu đã được nhận tiền đền bù.

Việc UBND thị xã S không công nhận nội dung khiếu nại của tôi với lý do nói trên là hoàn toàn không đúng vì thực tế, cha mẹ tội cũng như qua khẳng định của ông C, ông M hiện vẫn còn đang sống thì chưa từng có ý kiến hoặc giấy tờ gì để hiến đất cho UBND huyện như công văn khẳng định. Hiện nay, phần diện tích đất của gia đình tôi theo biên bản đo đạc thực tế là 2 989m2, cha mẹ tôi hiện đã mất, tôi và anh trai Nguyễn Văn Tr là người thừa kế hợp pháp của cha mẹ tiếp tục yêu cầu UBND huyện trả lại diện tích đất cho gia đình tôi quản lý, sử dụng.

Yêu cầu Tòa án giải quyết: Hủy bỏ toàn bộ công văn số 1959/UBND-NC ngày 07/11/2016 của UBND thị xã S; đồng thời yêu cầu UBND thị xã S trả lại toàn bộ diện tích đất đã mượn của gia đình tôi theo quy định của pháp luật.

Người bị kiện là UBND thị xã S trình bày:

Phần diện tích đất hiện nay mà bà Nguyễn Thị Đ khiếu nại đòi Nhà nước trả lại là không có cơ sở để giải quyết, vì trên thực tế, toàn bộ diện tích đất vườn và ruộng của 03 hộ là Đinh Văn C, Nguyễn M (cha ông Nguyễn Văn B) và Nguyễn L (cha của bà Đ) đều đã tự nguyện hiến cho Nhà nước quản lý và sử dụng trên 40 năm. Do vậy, căn cứ khoản 5 Điều 26 Luật Đất đai năm 2013, việc khiếu nại đòi lại đất do Nhà nước quản lý của bà Nguyễn Thị Đ là không phù hợp quy định của pháp luật về đất đai hiện hành.

Quá trình giải quyết vụ án

1. Cấp sơ thẩm

Vụ án hành chính được TAND tỉnh P thụ lý sơ thẩm số 68/2017/TLST-HC ngày 11/11/2017. Ngày 22/10/2018, TAND tỉnh P ra Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính số 20/2018/QĐST-HC căn cứ vào khoản 5 Điều 38, Điều 143, Điều 144 của Luật Tố tụng hành chính: Đình chỉ giải quyết vụ án hành chính sơ thẩm thụ lý số 68/2017/TLST-HC ngày 11/11/2017 về việc: “Khởi kiện Quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”, giữa người khởi kiện là bà Nguyễn Thị Đ và người bị kiện là Chủ tịch UBND thị xã S với lý do: “Công văn số 1959/UBND-NC ngày 07/11/2016 của UBND thị xã S về việc trả lời đơn khiếu nại đòi lại đất của các ông bà Đ, B, C (Trong đó có người khởi kiện là bà Nguyễn Thị Đ) có nội dung liên quan đến việc đòi lại đất Nhà nước đã đưa vào sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước. Việc bà Đ khiếu nại đòi lại đất là việc xem xét đối với chính sách đất đai theo Điều 1 Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc hội nên không thuộc đối tượng khởi kiện theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính. Tòa án không có thẩm quyền giải quyết.”

Ngày 25/10/2018, bà Nguyễn Thị Đ có đơn kháng cáo toàn bộ Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính số 20/2018/QĐST-HC ngày 22/10/2018 của TAND tỉnh P.

2. Cấp phúc thẩm

Ngày 28/2/2019, theo đề nghị của Kiểm sát viên VKSND cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên họp phúc thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm TAND cấp cao tại Đà Nẵng ra “Quyết định giải quyết việc kháng cáo đối với Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án” số 22/2019/QĐ-PT. Căn cứ điểm c khoản 5 Điều 243 Luật Tố tụng hành chính, quyết định:

1. Chấp nhận đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị Đ.

Hủy Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính số 20/2018/QĐST-HC ngày 22/10/2018 của TAND tỉnh P. Chuyển hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh P để tiếp tục giải quyết vụ án.

2. Án phí hành chính phúc thẩm: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Bà Nguyễn Thị Đ không phải chịu án phí hành chính phúc thẩm. Hoàn trả lại cho bà Nguyễn Thị Đ 300 000đ (Ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí hành chính phúc thẩm đã nộp tại biên lai thu số 12953 ngày 09/11/2018 của Cục thi hành án dân sự tỉnh P.

3. Quyết định này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày 28/2/2019.

Vấn đề cần rút kinh nghiệm

Ngày 16/10/2017, bà Nguyễn Thị Đ có gửi đơn khởi kiện và đề nghị TAND tỉnh P hủy toàn bộ Quyết định giải quyết khiếu nại số 1959/UBND-NC ngày 07/11/2016 của UBND thị xã S.

Xét Công văn giải quyết khiếu nại số 1959/UBND-NC ngày 07/11/2016 của UBND thị xã S: Về mặt hình thức, việc giải quyết khiếu nại được ban hành dưới hình thức Công văn là vi phạm về mặt hình thức theo quy định của Luật Khiếu nại. Tuy nhiên, về bản chất, Công văn số 1959 của UBND thị xã S chính là Quyết định giải quyết khiếu nại đối với đơn khiếu nại ngày 01/10/2016 của các ông, bà: Nguyễn Thị Đ, Nguyễn Văn B, Đinh Văn C (Trong đó có người khởi kiện là bà Nguyễn Thị Đ).

Do áp dụng cho một đối tượng cụ thể (bà Nguyễn Thị Đ) và chứa đựng nội dung ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của bà Đ nên Công văn số 1959/UBND-NC ngày 07/11/2016 của UBND thị xã S là Quyết định hành chính thuộc đối tượng khởi kiện theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính.

Việc TAND tỉnh P ra Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính sơ thẩm thụ lý số 68/2017/TLST-HC ngày 11/11/2017 về việc: “Khởi kiện Quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”, giữa người khởi kiện là bà Nguyễn Thị Đ và người bị kiện là Chủ tịch UBND thị xã S với lý do: “Công văn số 1959/UBND-NC ngày 07/11/2016 của UBND thị xã S về việc trả lời đơn khiếu nại đòi lại đất của các ông bà Đ, B, C (Trong đó có người khởi kiện là bà Nguyễn Thị Đ) có nội dung liên quan đến việc đòi lại đất Nhà nước đã đưa vào sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước. Việc bà Đ khiếu nại đòi lại đất là việc xem xét đối với chính sách đất đai theo Điều 1 Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc hội nên không thuộc đối tượng khởi kiện theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính. Tòa án không có thẩm quyền giải quyết” là không phù hợp theo quy định pháp luật.

Thanh Hằng

(Tổng hợp)

 

 

Tìm kiếm