Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh.
* Kháng nghị số 1566/QĐ/KNPT-DS ngày 13/9/2010 đối với bản án sơ thẩm số 01/2010/DSST ngày 20/8/2010 của Tòa án nhân dân thị xã Hồng Lĩnh về giải quyết vụ kiện “tranh chấp không gian bị lấn chiếm” giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Xứng, bịđơn là ông Phan Văn Thiết đều trú tại phường Nam Hồng, thị xã Hồng lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh.
TIN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT CÁC HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP: Kháng nghị, kiến nghị trong hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân các cấp
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh.
* Kháng nghị số 1566/QĐ/KNPT-DS ngày 13/9/2010 đối với bản án sơ thẩm số 01/2010/DSST ngày 20/8/2010 của Tòa án nhân dân thị xã Hồng Lĩnh về giải quyết vụ kiện “tranh chấp không gian bị lấn chiếm” giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Xứng, bịđơn là ông Phan Văn Thiết đều trú tại phường Nam Hồng, thị xã Hồng lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh.
Lý do kháng nghị:
Tòa sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Phan Văn Thiết buộc bà Nguyễn Thị Xứng trả khoản nợ 10.000.000đ trong cùng vụ án “đòi dỡ bỏ công trình, trả lại phần không gian bị lấn chiếm” là trái với quy định tại khoản 2 Điều 176 Bộ luật tố tụng dân sự và hướng dẫn tại mục 11 phần I Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Quá trình giải quyết Tòa sơ thẩm không yêu cầu đương sự nộp các tài liệu chứng minh cho việc thanh toán nợ vào tối ngày 05/8/2009, không hỏi ý kiến của bà Xứng đối với các nội dung chị Hồng tường trình đã buộc bà Xứng phải trả khoản nợ 10.000.000đ cho ông Thiết là chưa thỏa đáng.
Như vậy việc Tòa án sơ thẩm thụ lý yêu cầu phản tố của ông Thiết và buộc bà xứng phải trả khoản tiền 10.000.000đ cho ông Thiết là không thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự, không điều tra đầy đủ dẫn đến nội dung giải quyết chưa đảm bảo khách quan, làm ảnh hưởng tới quyền lợi của đương sự.
Kháng nghị yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh áp dụng khoản 3 Điều 275 Bộ luật tố tụng dân sự xử hủy phần giải quyết yêu cầu thanh toán nợ vay giữa ông Phan Văn Thiết đối với bà Nguyễn Thị Xứng và giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thị xã Hồng lĩnh giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.
*Kiến nghị số 2008/KN-KSXXHS ngày 03/11/2010 gửi Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh về Kiến nghị vi phạm trong công tác xét xử án hình sự.
Vi phạm trong áp dụng Bộ luật hình sự:
- Bản án áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự hoặc xử dưới khung hình phạt không đúng với quy định tại Điều 46, Điều 47, Điều 48 BLHS.
Bản án sơ thẩm số 42 ngày 30/11/2009 của TAND Thành phố Hà Tĩnh xét xử Nguyễn Phi Sơn và đồng bọn phạm tội Cướp tài sản và bản án sơ thẩm số 26 ngày 26/11/2009 của thị xã Hồng Lĩnh xét xử Nguyễn Hữu Sơn và đồng bọn tội Cướp tài sản. Các bị cáo có một tình tiết giảm nhẹ quy định điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS, nhưng Tòa án vẫn áp dụng Điều 47 BLHS xử dưới khung hình phạt là không đúng quy định Điều 47 và Nghị quyết 01 ngày 04/8/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Bản án sơ thẩm số 05 ngày 01/4/2010 của TAND huyện Lộc Hà xét xử Trần Hậu Kỷ và đồng bọn, phạm tội đánh bạc. Bản án áp dụng tình tiết giảm nhẹ”phạm tội chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn”, quy định tại điểm g khoản 1 Điều 46 BLHS đối với các bị cáo là không chính xác, vì tội đánh bạc xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, giá trị tiền phạm tội được quy định rõ trong điều luật. Lẽ ra phải áp dụng tình tiết giảm nhẹ “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46 BLHS.
Bản án phúc thẩm số 60 ngày 31/8/2010 của TAND tỉnh Hà Tĩnh xét xửđối với bị cáo Nguyễn Duy Hà, phạm tội Cố ý gây thương tích. Bản án xử phạt bị cáo dưới khung hình phạt nhưng không áp dụng điều 47 BLHS là thiếu căn cứ pháp luật.
- Bản án áp dụng thiếu cụ thểđiểm, khoản của điều luật, áp dụng thiếu hoặc sai căn cứ pháp luật:
Bản án số 10 ngày 26/3/2010 của TAND huyện Hương Khê xét xử Phan Giáp và đồng bọn về tội cố ý làm hư hỏng tài sản, chống người thi hành công vụ. Bản án buộc bị cáo bồi thường dân sự nhưng không áp dụng khoản 1 Điều 42 BLHS là thiếu căn cứ pháp luật.
Bản án sơ thẩm số 01 ngày 04/02/2010 của TAND huyện Lộc Hà xét xử Phan Duy Tao phạm tội mua bán trái phép chất ma túy. Bản án áp dụng điểm a, khoản 5 Diều 194 BLHS phạt tiền đối với bị cáo là không chính xác vì khoản 5 Điều 194 BLHS không có điểm a. áp dụng Điều 169 BLDS trả cho bị cáo 01 bật lửa, 01 ví da là không chính xác vì điều 169 BLDS quy định về bảo vệ quyền sở hữu.
Bản án sơ thẩm số 04 ngày 08/2/2010 của TAND huyện Thạch Hà xét xử Hoàng Trung Thắng phạm tội Vi phạm quy định vềđiều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Bản án trích dẫn Quyết định số 05 ngày 02/2/2007 của Bộ giao thông vận tải để làm căn cứ xác định lỗi của bị cáo là không chính xác vì Quyết định 05 đã được thay thế bằng Thông tư 13 ngày 17/7/2009 của Bộ giao thông vận tải.
Vi phạm trong việc áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự:
Bản án phúc thẩm số 109 ngày 23/11/2009, của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xét xửđối với bị cáo Lê Thị Phương và đồng bọn phạm tội làm nhục người khác theo khoản 1 Điều 121 BLHS. Bản án chấp nhận một phần kháng cáo yêu cẩu tăng hình phạt của người bị hại là chị Phan Thị Thành, nhưng phần quyết định bản án không áp dụng khoản 3 Điều 249 BLTTHS là thiếu căn cứ pháp luật.
Bản án phúc thẩm số 03 ngày 19/1 2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xét xửđối với Phan Trọng Quân, phạm tộ trộm cắp tài sản. Phần quyết định của bản án y án sơ thẩm nhưng Tòa án áp dụng điểm b khoản 2 Điều 248 BLTTHS là không chính xác (lẽ ra áp dụng điểm a khoản 2 Điều 248 BLTTHS).
Qua công tác kiểm sát Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh Kiến nghị gửi Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh có biện pháp chỉđạo, chấn chỉnh không để lặp lại các vi phạm nhưđã nêu trên, đồng thời xem xét trách nhiệm đối với những cá nhân có vi phạm.
Thu Hương