TIN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT CÁC HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CÁC CẤP
1. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh
* Thực hiện chương trình, kế hoạch công tác kiểm sát thi hành án năm 2010, Viện kiểm sát nhân dân 02 cấp tỉnh Quảng Ninh đã tiến hành kiểm sát trực tiếp đối với Cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp (thời điểm từ 01/7/2009 đến 01/7/2010). Sau kiểm tra có kết luận đánh giá những ưu điểm, đồng thời kiến nghị, kháng nghị yêu cầu khắc phục những thiếu sót vi phạm.
- Vềưu điểm:
Cơ quan thi hành án hai cấp của tỉnh Quảng Ninh có nhiều biện pháp nhằm tổ chức, thực hiện công tác thi hành án dân sựđạt hiệu quả ngày càng cao, giải quyết được những vụ án tồn đọng qua nhiều năm. Công tác thu chi, quản lý và sử dụng tiền thi hành án thực hiện đúng hướng dẫn tại Thông tư số 68 ngày 21/7/2008 của Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính về tỷ lệ trích nộp tiền phí thi hành án.
Về hệ thống sổ sách: Hầu hết các cơ quan Thi hành án đã mở đầy đủ cột, mục theo đúng quy định. Việc theo dõi sắp xếp hồ sơ từng loại ngăn nắp, khoa học, giúp cho việc theo dõi giải quyết nhanh chóng, thuận tiện.
Các loại hồ sơ có điều kiện thi hành và chưa có điều kiện thi hành, hồ sơ thi hành xong tương đối đảm bảo về trình tự, thủ tục thực hiện các biện pháp giải quyết theo theo quy định của Luật thi hành án dân sự năm 2008, Nghị định 58 ngày 13/7/2009 của Chính phủ và các Thông tư liên tịch hướng dẫn.
Công tác xác minh phân loại án, xác minh điều kiện thi hành án thực hiện tương đối tốt. Việc phân loại án chưa có điều kiện thi hành cơ bản đúng quy định của Luật thi hành án dân sự và Thông tư liên tịch số 12 ngày 26/02/2001 của Bộ Tư pháp và Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Về thiếu sót, vi phạm
+ Hệ thống sổ sách của một số Chi cục thi hành án dân sự chưa đầy đủ như: Không có sổ theo dõi nhận bản án, quyết định của Tòa án; sử dụng sổ nhận bản án, quyết định không đúng mẫu quy định; cập nhật sổ không đúng trình tự thời gian, không đầy đủ các nội dung cột, mục, số thự tự trùng nhau, không thực hiện việc kết sổ theo quy định.
+ Thủ tục giao nhận bản án, quyết định của Tòa án chưa đúng quy định, nhiều quyết định của Tòa án không có thông báo bằng văn bản , hoặc không ký giao nhận với Tòa án.
+ Một số quyết định ban hành chưa kịp thời, chưa đúng mẫu quy định,viện dẫn sai điều luật, trả đơn yêu cầu không đúng, không ra quyết định ủy thác khi đã có căn cứ ủy thác, không ban hành kịp thời quyết định hoãn thi hành án…
+ Về thủ tục thông báo thi hành án và xác minh thi hành án: Có nhiều trường hợp cơ quan Thi hành án dân sự không ra thông báo cho đương sự; còn nhiều việc chưa được cơ quan Thi hành án xác minh điều kiện thi hành của người phải thi hành án để phân loại giải quyết; có những việc có điều kiện thi hành nhưng cơ quan Thi hành án dân sự lại đưa vào diện chưa có điều kiện thi hành…
+ Việc xét miễn, giảm thi hành án: Đề nghị xét miễn nghĩa vụ thi hành án không đủ điều kiện xét miễn (chưa đủ thời gian; biên bản xác minh đã quá hạn luật định).
Những thiếu sót trên của một số Chi cục thi hành án dân sự đã vi phạm các Điều 29, 36, 48, 50, 51 Luật thi hành án dân sự năm 2008 và Thông tư số 06/TT-BTP ngày 05/7/2007 của Bộ Tư pháp, Nghị định 58/CP ngày 13/;7/2009 của Chính phủ.
2. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ:
Ngày 28/9/2010, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ ban hành Kế hoạch trực tiếp kiểm sát thi hành án dân sự và Quyết định trực tiếp kiểm sát công tác thi hành án dân sự đối với Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ (Thời điểm kiểm sát từ 01/9/2010 đến 30/9/2010; thời gian kiểm sát từ 11/10/2010)
3. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận
Ngày 30/9/2010, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận ban hành kết luận trực tiếp kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong công tác Thi hành án dân sự tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Bình Thuận (Thời điểm từ 01/12/2008 đến 31/5/2010). Kết luận đã đánh giá những ưu điểm và chỉ ra những tồn tại thiếu sót trong công tác thi hành án dân sự, nguyên nhân của tồn tại và yêu cầu sửa chữa, khắc phục vi phạm. Cụ thể:
- Ưu điểm:
Đa số hồ sơ thi hành án được lập theo đúng quy định tại Thông tư số 06 ngày 05/7/2007 của Bộ Tư pháp. Phần lớn các hồ sơđược sắp xếp cẩn thận, có ghi số bút lục. Việc ban hành các quyết định thi hành án và việc thu, chi trả tiền thi hành án được thực hiện đúng quy định của pháp luật.
- Tồn tại, thiếu sót:
+ Có 01 việc quá thời hạn 10 ngày mới ký Hợp đồng uỷ quyền bán đấu giá tài sản (bán đấu giá để thi hành Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 06 ngày 17/9/2009 của TAND tỉnh Bình Thuận).
+ Có 01 việc ký Hợp đồng uỷ quyền bán đấu giá tài sản trước khi người đồng sở hữu thoả thuận về giá tài sản (bán đấu giá để thi hành Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 07 ngày 11/11/2009 của TAND tỉnh Bình Thuận).
Các thiếu sót nêu trên đã vi phạm khoản 2 Điều 101 Luật thi hành án dân sự : “…Đương sự có quyền thoả thuận về tổ chức bán đấu giá trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc, kể từ ngày định giá. Chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản với tổ chức bán đấu giá do đương sự thoả thuận. Trường hợp đương sự không thoả thuận được thì Chấp hành viên lựa chọn tổ chức bán đấu giá để ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản.
Việc ký hợp đồng bán đấu giá được tiến hành trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày định giá”.
+ Có 03 việc thuộc diện chủđộng thi hành án, nhưng định kỳ Chấp hành viên không tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của đương sự. Vi phạm khoản 5 Điều 6 Nghịđịnh 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ về việc hướng dẫn thi hành một sốđiều của Luật thi hành án dân sự: “ Đối với việc thi hành án thuộc diện chủđộng thi hành án mà người phải thi hành không có điều kiện thi hành thì ít nhất 06 tháng một lần Chấp hành viên phải thực hiệníac minh điều kiện thi hành án của đương sự. Trường hợp người phải thi hành án không có điều kiện thi hành mà đang chấp hành hình phạt tù hoặc không xác định được địa chỉ, nơi cư trú thì thời hạn xác minh giữa các lần không được quá một năm”.
+ Có 01 việc thuộc diện chủ động thi hành án, biên bản xác minh không có xác nhận của đại diện Công an cấp xã và khu phố. Vi phạm khoản 2 điều 44 Luật thi hành án dân sự: “…Việc xác minh phải được lập thành biên bản có xác nhận của tổ trưởng tổ dân phố, uỷ ban nhân dân, Công an cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi tiến hành xác minh”.
+ Có một việc chưa thi hành theo nội dung bản án đã tuyên: Bản án hình sự sơ thẩm số 06 ngày 03/3/2010 của TAND tỉnh Bình Thuận tuyên trả cho ông U MIN MIN SEIN, sinh ngày 02/12/1971, quốc tịch Myanma 1.400.000đ và 01 điện thoại di động hiệu Nokia 8250 (các tài sản này hiện đang tạm giữ tại Cục thi hành án dân sự và Kho bạc Nhà nước tỉnh Bình Thuận). Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, Cục thi hành án dân sự tỉnh Bình Thuận có trách nhiệm thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng theo quy định của pháp luật, thời hạn 06 tháng để tìm chủ sở hữu. Hết thời hạn thông báo nếu không tìm thấy chủ sở hữu thì toàn bộ số tiền và tài sản trên được sung quỹ nhà nước.
Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, ngày 15/4/2010 Cục thi hành án dân sự tỉnh Bình Thuận có quyết định số 95 trả lại tài sản cho ông U MIN MIN SEIN theo nội dung bản án trên. Nhưng đến ngày 01/7/2010 (hơn 02 tháng kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật), Cục thi hành án dân sự tỉnh Bình Thuận vẫn chưa thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng để tìm chủ sở hữu, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ sở hữu.
- Nguyên nhân của thiếu sót:
Ý thức chấp hành pháp luật của một số người phải thi hành án chưa tốt, tìm cách lẩn tránh việc thực hiện nghĩa vụ hoặc khiếu nại đến nhiều cấp, ngành.
Số án phức tạp ngày càng nhiều, một số việc tài sản của người phải thi hành án đã được kê biên, định giá và thông báo bán đấu giá nhiều lần nhưng không có người mua.
Một số Chấp hành viên thực hiện chưa đầy đủ chức trách, nhiệm vụ được giao, năng lực chuyên môn hạn chế. Công tác kiểm tra của lãnh đạo Cục thi hành án đối với Chấp hành viên trong công tác thi hành án chưa thường xuyên.
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận yêu cầu Cục trưởng Cục thi hành án tỉnh Bình Thuận kiểm tra, chấn chỉnh công tác thi hành án dân sự, khắc phục thiếu sót vi phạm nêu trên. Đồng thời kiểm điểm, làm rõ trách nhiệm của Chấp hành viên để xảy ra thiếu sót, vi phạm và trả lời cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được Bản kết luận theo quy định tại Điều 25 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002.
Thanh Tâm