Quyết định Kháng nghị số 10/QĐ-KNPT-P5 ngày 12/7/2010 đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 09/2010/DS - ST ngày 02/6/2010 của TAND huyện Yên Sơn theo thủ tục phúc thẩm, giải quyết vụ án “Tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản” giữa:
Nguyên đơn: Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Yên Sơn
Địa chỉ: xã An Tường, thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hán Đình Thi, cán bộ Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Yên Sơn...
Kháng nghị trong Thực hành quyền công tố và Kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân các cấp
1. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang
Quyết định Kháng nghị số 10/QĐ-KNPT-P5 ngày 12/7/2010 đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 09/2010/DS - ST ngày 02/6/2010 của TAND huyện Yên Sơn theo thủ tục phúc thẩm, giải quyết vụ án “Tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản” giữa:
Nguyên đơn: Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Yên Sơn
Địa chỉ: xã An Tường, thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hán Đình Thi, cán bộ Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Yên Sơn.
Bịđơn: Hoàng Hải Kế- sinh năm 1968.
Trú tại: Thôn Đõ, xã Mỹ Bằng, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.
Lý do kháng nghị:
Bản án dân sự sơ thẩm nêu trên đã quyết định:
Tuyên xử: Buộc ông Hoàng Hải Kế có nghĩa vụ phải trả nợ cho Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Yên Sơn số tiền gốc là 10.065.000đ và số tiền lãi là 3.247.573đ (tính đến ngày 31/5/2010). Tổng cộng số tiền gốc và lãi ông Kế phải trả nợ Ngân hàng là 13.312.573đ.
Ông Hoàng Hải Kế phải chịu 665.628đ án phí dân sự có giá ngạch.
Ngoài ra bản án còn tuyên quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 26/10/2009, Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Yên Sơn khởi kiện yêu cầu ông Hoàng Hải Kế và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Hằng (vợ ông Kế) phải trả cho Ngân hàng số tiền gốc, lãi và lãi quá hạn theo thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng ngày 27/4/2006. Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Yên Sơn đã nộp tiền tạm ứng án phí số tiền 251.600đ tại Biên lai thu tiền số 002218.
Số tiền ông Hoàng Hải Kế ký vay đã sử dụng vào mục đích cho vợ là bà Nguyễn Thị Hằng đi xuất khẩu có thời hạn tại Malaixia, do đó bà Hằng phải có trách nhiệm liên đới đối với số tiền vay đó. Tòa án nhân dân huyện Yên Sơn không đưa bà Hằng tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan trong vụ án theo yêu cầu của nguyên đơn là trái với quy định tại Điều 56 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 25 Luật hôn nhân gia đình năm 2000 và sẽ gây khó khăn cho việc thi hành bản án.
Về xử lý tiền tạm ứng án phí: Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Yên Sơn nhưng lại không tuyên trả tiền tạm ứng án phí Ngân hàng đã nộp là không đúng quy định tại Điều 128, 238 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 18 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự.
Việc giải quyết vụ án nêu trên của Tòa án nhân dân huyện Yên Sơn đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dân sự.
Kháng nghịđề nghị Tòa phúc thẩm, Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang xét xử vụ án theo hướng hủy bản án sơ thẩm số 09/2010/DS - ST ngày 02/6/2010 của TAND huyện Yên Sơn và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung.
2. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình
Ngày 26/8/2010, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình ban hành Quyết định số 01 về việc Bổ sung quyết định Kháng nghị số 08/QĐ-KNPT ngày 02/7/2010 đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2010/DS - ST ngày 03/6/2010 của TAND huyện Đông Hưng theo thủ tục phúc thẩm, giải quyết vụ án “Tranh chấp về thừa kế tài sản” giữa:
Nguyên đơn: Ông Kim Duy Phụng- SN 1931, trú tại phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.
Các đồng bịđơn: Anh Tô Hữu Thiêm- sinh năm 1959, trú tại phường Quang Trung, TP Thái Bình, tỉnh Thái Bình, anh Tô Văn Thanh- sinh năm 1962, trú tại xã Đông Phong, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình .
Lý do bổ sung kháng nghị:
Ngoài những vi phạm về thủ tục tố tụng như kháng nghị số 08/QĐ-KNPT ngày 02/7/2010 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình, Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2010/DS - ST ngày 03/6/2010 của TAND huyện Đông Hưng của Tòa án nhân dân huyện Đông hưng còn vi phạm về thủ tục tố tụng: Chị Tô Thị Thủy, là người có quyền lợi và nghĩa vụ có liên quan trong vụ án hiện đang cư trú tại Đài Loan, viết giấy ủy quyền cho anh Tô Hữu Thiêm (anh trai chị Thủy) tham gia tố tụng. Vì vậy, đây là vụ kiện có yếu tố nước ngoài không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện, được quy định tại khoản 3 Điều 33 Bộ luật tố tụng dân sự.
Khoản 3 Điều 33 Bộ luật tố tụng dân sự quy định: “Những tranh chấp, yêu cầu quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự của việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án nước ngoài không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện”.
Như vậy, tòa án nhân dân huyện Đông Hưng giải quyết vụ án là không đúng thẩm quyền, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
3.Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa
* Quyết định Kháng nghị giám đốc thẩm số 03/QĐ-KNGĐT-P5 ngày 13/7/2010 đối với Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 09/2010/QĐST-DS ngày 16/6/2010 của TAND thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa giữa:
Nguyên đơn: Phạm Thị Vui, trú tại khu phố 1, phường Bắc Sơn, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa
Đồng bịđơn: Hoàng Văn Bình, Phạm Thị Loan, trú tại khu phố 6, phường Bắc Sơn, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Lý do kháng nghị:
Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 09/2010/QĐST-DS ngày 16/6/2010 của TAND thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa tuyên trách nhiệm về phần án phí buộc anh Hoàng Văn Bình và chị Phạm Thị Loan phải chịu 2.015.000 đ. Bà Phạm Thị Vui phải chịu 2.015.000đ án phí dân sự sơ thẩm, trên cơ sở số tiền hai bên tranh chấp là 80.600.000đ. Việc tuyên buộc về án phí của Tòa án nhân dân thị xã Bỉm Sơn là không đúng quy định tại khoản 3 Điều 131 Bộ luật tố tụng dân sự và khoản 11 Điều 27 Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH 12 của ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí của Tòa án.
Đơn khởi kiện của bà Phạm Thị Vui yêu cầu giải quyết số tiền vay là 68.000.000đ và lãi suất hai bên thỏa thuận là 22.600.000đ. Tổng số tiền anh Bình, chị Loan phải trả cho bà Vui (cả gốc và lãi) là 90.600.000đ. án phí dân sự sơ thẩm hai bên phải chịu là 2.265.000đ, mỗi bên đương sự chỉ phải nộp 1.132.500đ. Quyết định công nhận sự thỏa thuận nêu trên buộc mỗi bên đương sự phải nộp 2.015.000đ, thu 100% tiền án phí dân sự sơ thẩm là sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật, làm thiệt hại đến quyền lợi hợp pháp của các đương sự.
Kháng nghịđề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xét xử vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng hủy phần án phí chưa phù hợp với quy định của pháp luật, giao hồ sơ về cho Tòa án nhân dân thị xã Bỉm Sơn giải quyết lại theo thủ tục chung.
Tạm đình chỉ thi hành quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự số 09/2010/QĐST-DS ngày 16/6/2010 của TAND thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa (về phần án phí) chờ kết quả xét xử mới.
* Quyết định Kháng nghị phúc thẩm số 08/QĐ-KNPT-P5 ngày 26/7/2010 đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2010/DSST ngày 30/6/2010 của TAND thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa giữa:
Nguyên đơn: Trần Thi Oanh, trú tại khu 2, phường Ba Đình, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa
Bịđơn: Trịnh Thị Quỳ, sinh năm 1961, trú tại tổ 2, khu 2, phường Ba Đình, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Lý do kháng nghị:
- Bản án dân sự sơ thẩm xác định không chính xác về số tiền án phí dân sự sơ thẩm. Phần nhận định, Tòa tính số tiền án phí sơ thẩm chị Oanh phải nộp là 88.530.860đ x 5%= 4.426.543đ. Nhưng tại phần quyết định, bản án sơ thẩm lại xác định chi Oanh phải nộp 4.450.000đ, chịđã nộpsố tiền là 1.200.000đ, miễn phần còn lại 3.226.543đ.
- Tòa án nhân dân thi xã Bỉm Sơn miễn án phí tùy tiện, không đúng với quy định của pháp luật: Chị Oanh có xác nhận của ủy ban nhân dân phường về hoàn cảnh gia đình khó khăn đểđược miễn một phần án phí dân sự sơ thẩm. Tòa án miễn cho chị Oanh 50% tiền án phí dân sự sơ thẩm, thì số tiền được miễn là 2.213.271đ, nhưng Tòa sơ thẩm lại miễn 3.226.543đ là không đúng với quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 14 Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/2/2009 của ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về miễn một phần tiền tạm ứng án phí, tiền tạm ứng lệ phí, án phí Tòa án.
Kháng nghịđề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm theo hướng sửa án sơ thẩm về phần án phí nhưđã phân tích ở trên.
* Quyết định Kháng nghị phúc thẩm số 09/QĐ-KNGĐT-P5 ngày 25/8/2010 đối với bản án dân sự sơ thẩm số 01/2010/DSST ngày 29/7/2010 của TAND huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa giữa:
Nguyên đơn: Nguyễn Văn Thắng, sinh năm 1954
Trú quán: thôn Măng, xã Lương Ngoại, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa.
Bịđơn: Trương Văn Tuyên, sinh năm 1967.
Trú quán: thôn Ngọc Sinh, xã Lương ngoại, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Phạm Thị Dương, sinh năm 1966.
Trú quán: thôn Ngọc Sinh, xã Lương ngoại, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa.
Lý do kháng nghị:
Hợp đồng vay nợ giữa anh Thắng và anh Tuyên, chị Dương ký kết ngày 20/4/1998. Đến hạn trả nợ theo hợp đồng là ngày 20/10/1999, anh Tuyên, chị Dương không trả tiền cho anh Thắng nhưng anh Thắng không khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết. Theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự thì đến ngày 21/10/2001 là vụ việc này hết thời hiệu khởi kiện.
Đến ngày 04/3/2010 anh Thắng mới khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết việc anh Tuyên, chị Dương vay tiền của anh không trả, Tòa án nhân dân huyện Bá Thước thụ lý, giải quyết vụ án là vi phạm điểm a khoản 3 Điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự (thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự là 02 năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân… bị xâm hại).
Vụ án này thuộc trường hợp thời hiệu khởi kiện đã hết, Tòa án huyện Bá Thước phải trả lại đơn khởi kiện, tài liệu chứng cứ kèm theo và ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự, xóa tên vụ án trong sổ thụ lý theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 168, khoản 2 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự.
Kháng nghịđề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục phúc thẩm, căn cứĐiều 287 Bộ luật tố tụng dân sựđể hủy án sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Tổng hợp: Thanh Tâm