Qua theo dõi việc Chấp hành chế độ báo cáo, gửi thông báo thụ lý, thông báo kháng cáo và kiểm sát các bản án, quyết định trong lĩnh vực dân sự 06 tháng đầu năm 2010 của Viện kiểm sát nhân dân huyện, thị xã, thành phố về Viện kiểm sát tỉnh, ngày 02/7/2010, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh ban hành Thông báo rút kinh nghiệm số 49/TB-VKS-P5. Nội dung:
TIN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT CÁC HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CÁC CẤP
Thông báo rút kinh nghiệm của Viện kiểm sát nhân dân các cấp:
1. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh
Qua theo dõi việc Chấp hành chế độ báo cáo, gửi thông báo thụ lý, thông báo kháng cáo và kiểm sát các bản án, quyết định trong lĩnh vực dân sự 06 tháng đầu năm 2010 của Viện kiểm sát nhân dân huyện, thị xã, thành phố về Viện kiểm sát tỉnh, ngày 02/7/2010, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh ban hành Thông báo rút kinh nghiệm số 49/TBVKS-P5. Nội dung:
- Về gửi báo cáo tuần, báo cáo tháng: Các Viện kiểm sát chấp hành tốt việc gửi báo cáo tuần, báo cáo tháng là: Hạ Long, Cẩm Phả, Đông Triều, Yên Hưng, Móng Cái, Đầm Hà, Hải Hà, Vân Đồn, Tiên Yên, Bình Liêu.
- Về gửi thông báo thụ lý của Toà án:
Viện kiểm sát tỉnh không nhận được thông báo thụ lý của Toà án của Viện kiểm sát Ba Chẽ, Bình Liêu và Uông Bí. Một số Viện kiểm sát gửi chưa đầy đủ là Hải Hà, Cẩm Phả, Hoành Bồ, Móng Cái và Hạ Long.
- Về việc gửi báo cáo chuyên đề: Một số đơn vị gửi chậm như Viện kiểm sát Hoành Bồ, Tiên Yên, Uông Bí, Cô Tô, riêng Viện kiểm sát Ba Chẽ không gửi.
- Về gửi thông báo vụ án có kháng cáo của Toà án:
Số vụ án có kháng cáo Toà án cấp phúc thẩm thụ lý là 33 vụ, nhưng Viện kiểm sát tỉnh chỉ nhận được 19 thông báo kháng cáo. Các Viện kiểm sát gửi thiếu là Hạ Long, Cẩm Phả, Uông Bí, Hải Hà và Móng Cái.
- Về gửi bản kháng nghị cho đương sự:
Một số Viện kiểm sát khi ban hành kháng nghị không có văn bản thể hiện việc đã gửi bản kháng nghị cho đương sự, do gửi thường bằng bưu điện, nên tại phiên toà phúc thẩm đương sự khai không nhận được, vi phạm Điều 253 Bộ luật tố tụng hình sự (Vụ Vũ Đức Thuận, Móng Cái; vụ Trần Quý Hai, Đông Triều).
Việc không gửi các loại văn bản trên của Viện kiểm sát một số huyện, thị đã gây khó khăn cho việc nghiên cứu, tổng hợp của Viện kiểm sát tỉnh.
* Về chất lượng công tác kiểm sát:
- Viện kiểm sát 2 cấp đã phát hiện được nhiều vi phạm thiếu sót trong quá trình thụ lý, giải quyết các vụ việc dân sự. Ban hành 26 kháng nghị, 34 văn bản kiến nghị. Những đơn vị làm tốt công tác này là Hạ Long, Cẩm Phả, Đông Triều, Yên Hưng, Móng Cái, Vân Đồn, Hải Hà.
Riêng Viện kiểm sát thị xã Uông Bí, chưa đầu tư thời gian nghiên cứu tài liệu, văn bản và do trình độ hạn chế nên không phát hiện ra các vi phạm để kháng nghị.
Các đơn vị chưa ban hành được kháng nghị, kiến nghị là: Tiên Yên, Hoành Bồ, Ba Chẽ, Bình Liêu, Cô Tô.
- Một số vấn đề cần rút kinh nghiệm và lưu ý trong quá trình nghiên cứu bản án, quyết định của Toà án cùng cấp:
+ Vi phạm trong tính án phí của Toà án: Vụ án Lê Thị Leo ở Đông Triều, theo đơn khởi kiện tài sản tranh chấp là 800 m2 đất ở thị trấn Mạo Khê, nhưng quá trình thụ lý giải quyết, toà án chấp nhận sự thoả thuận của các bên chỉ với giá 24 triệu đồng mà không tiến hành định giá là vi phạm khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự (vụ này Viện kiểm sát huyện đã kháng nghị và được Toà phúc thẩm xử chấp nhận kháng nghị); Vụ chia tài sản thừa kế trong trường hợp một đồng sở hữu chết thì đương sự chỉ phải chịu án phí phân chia phần tài sản của người chết để lại nhưng Toà án lại buộc đương sự phải chịu án phí đối với phần tài sản không yêu cầu chia (Vụ Nguyễn Thị Hiên ở Móng Cái. Vụ này Viện kiểm sát Móng Cái đã kháng nghị và được Toà phúc thẩm xử chấp nhận)
Ngoài ra, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh còn nêu một số dạng vi phạm của Toà án như: khi giải quyết các vụ án dân sự tách, nhập vụ án tuỳ tiện (vụ Nguyễn Thị Vinh ở Uông Bí, Viện kiểm sát tỉnh đã kháng nghị và được Toà án cấp phúc thẩm xử chấp nhận kháng nghị); trả lại đơn khởi kiện trái pháp luật (đơn của bà Nguyễn Thị Sáu ở phường Trà Cổ, thành phố Móng Cái. Viện kiểm sát tỉnh đã kiến nghị đến Chánh án TAND tỉnh chỉ đạo cấp huyện thụ lý giải quyết đơn khởi kiện của bà Sáu, Toà án Móng Cái đã phải thụ lý giải quyết )
2. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình:
Ngày 16/7/2010, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình ban hành văn bản số 468/TB-VKS gửi Viện kiểm sát nhân dân huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh Thái Bình cần lưu ý rút kinh nghiệm trong việc giải quyết các vụ án dân sự thông qua một số vụ án dân sự bị huỷ, sửa do có kháng nghị của Viện kiểm sát.
* Vụ tranh chấp quyền sử dụng đất giữa: Đồng nguyên đơn Tô Quang Huân, sinh năm 1949 và bà Bùi Thị Thía, sinh năm 1964 với đồng bị đơn Nguyễn Ngọc Khuê, sinh năm 1956 và Tô Thị Bắc, sinh năm 1958. Nguyên đơn và bị đơn đều trú tại phường Trần Hưng Đạo, thành phố Thái Bình.
Bản án số 04/2010/TCDS- ST của TAND thành phố Thái Bình giải quyết vụ kiện trên đã có vi phạm sau:
Trong quá trình giải quyết vụ kiện TAND thành phố Thái Bình không đưa đại diện UBND phường Trần Hưng Đạo vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và không đưa ông Phạm Văn Điều là người chuyển nhượng đất cho ông Khuê (người biết các tình tiết có liên quan) vào tham gia giải quyết vụ án là trái với quy định tại khoản 4 Điều 56, Điều 65 Bộ luật tố tụng dân sự.
Ngày 02/3/2010, Viện kiểm sát thành phố nhận được bản án nêu trên đã nghiên cứu (thể hiện bằng phiếu kiểm sát) nhưng không phát hiện được vi phạm, đã gửi cho Viện kiểm sát tỉnh. Viện kiểm sát tỉnh nghiên cứu phát hiện vi phạm đã kháng nghị và được Toà án cấp phúc thẩm xử chấp nhận một phần kháng nghị.
* Vụ “Tranh chấp Hôn nhân gia đình” giữa nguyên đơn Nguyễn Tất Tuyến, sinh năm 1981; địa chỉ: Quỳnh Hoa, Quỳnh Phụ, Thái Bình và bị đơn Phạm Thị Gấm, sinh năm 1982; sinh quán: Nam Hùng, Nam Trực, Nam Định. Hiện nay không rõ địa chỉ.
Ngày 20/5/2010, TAND huyện Quỳnh Phụ đã căn cứ vào khoản 2 Điều 192, Điều 193 và Điều 194 của Bộ luật tố tụng dân sự đã ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án số 05/2010/QĐST- HNGĐ, với lý do: Anh Tuyến không cung cấp được địa chỉ của bị đơn.
- Quyết định đình chỉ trên vi phạm về thủ tục tố tụng: Đơn xin ly hôn anh Tuyến của chị Gấm kèm theo phong bì chuyển đơn có ghi người gửi là Phạm Thị Gấm, Lộc Châu 4, xã Tân Nghĩa. Huyện Duy Linh, tỉnh Lâm Đồng và số điện thoại di động liên lạc (đơn này được chị Gấm gửi cho UBND xã Quỳnh Hoa và UBND xã gửi TAND huyện Quỳnh Phụ). Ngày 02/02/1010, TAND huyện Quỳnh Phụ cũng nhận được 01 đơn của chị Gấm (bản gốc) xin ly hôn với anh Tuyến và đề nghị TAND huyện Quỳnh Phụ xét xử vắng mặt chị với lý do ở xa không về được và đã thuận tình ly hôn.Phong bì thư cũng có địa chỉ và số điện thoại như trên (bút lục 02,03,04). Lẽ ra TAND huyện Quỳnh Phụ phải xác minh làm rõ chị Gấm có cư trú ở địa chỉ trên không để tiếp tục giải quyết vụ án, nhưng Toà án lại đình chỉ vụ án là không có căn cứ, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Viện kiểm sát huyện Quỳnh Phụđã nghiên cứu, phát hiện vi phạm, báo cáo Viện kiểm sát tỉnh. Viện kiểm sát tỉnh đã ban hành kháng nghị phúc thẩm đối với quyết định trên và được TAND tỉnh mở phiên họp xét quyết định, chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát.
3. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai:
* Ngày 26/7/2010, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai ban hành Thông báo rút kinh nghiệm trong công tác kiểm sát thi hành án hình sự, số 1109/TB-VKS-P10. Nội dung:
Qua theo dõi việc triển khai thực hiện Kế hoạch công tác kiểm sát năm 2010 đối với Viện kiểm sát nhân dân các huyện, thị xã, thành phố, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai nhận thấy nhiều đơn vị đã triển khai trực tiếp kiểm sát việc quản lý, giáo dục người được hưởng án treo tại UBND xã, phường, thị trấn đạt và vượt chỉ tiêu đề ra. Sau khi tiến hành trực tiếp kiểm sát các đơn vị đã ban hành văn bản kết luận, kiến nghị khắc phục vi phạm. Tuy nhiên, một số đơn vị không thực hiện đúng các biểu mẫu nghiệp vụ thi hành án số 17 (Quyết định trực tiếp kiểm sát thi hành án hình sự) và số 17 (Kết luận trực tiếp kiểm sát).
- Không thực hiện đúng biểu mẫu về cách ghi số, ký hiệu: các VKS Long Thành, Nhơn Trạch, thị xã Long Khánh
- Không thực hiện đúng tên gọi của quyết định trực tiếp kiểm sát: Các VKS Long Thành, Định Quán.
- Không viện dẫn đúng căn cứ pháp lý ban hành quyết định: Theo biểu mẫu số 17, căn cứ pháp lý ban hành quyết định trực tiếp kiểm sát thi hành án hình sự là các Điều 23, 24 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002; Điều 23, 257 Bộ luật tố tụng hình sự.
+ Các quyết định từ 269 đến 273 ngày 15/7/2010 của VKS huyện Long Thành lại căn cứ vào Điều 234 Bộ luật tố tụng hình sự quy định về thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
+ Quyết định số 165/QĐ-VKS ngày 23/6/2010 của VKS thị xã Long Khánh phần căn cứ pháp lý ban hành quyết định chỉ ghi căn cứ là Luật tổ chức VKSND năm 2002 mà không ghi điều luật cụ thể.
+ Các quyết định số 124, 128, 132 của VKS huyện Nhơn Trạch là quyết định trực tiếp kiểm sát việc quản lý, giáo dục người được hưởng án treo lại viện dẫn Điều 10 Pháp lệnh thi hành án dân sự ngày 28/01/2004 và Điều 12 Luật thi hành án dân sự số 26/2008/QH 12.
- Không thực hiện đúng biểu mẫu nghiệp vụ số 19 (Kết luận trực tiếp kiểm sát) như:
+ Không thực hiện đúng biểu mẫu về cách ghi số hiệu (VKS các huyện Nhơn Trạch, Trảng Bom, Long Thành)
+ Không thực hiện đúng tên gọi của kết luận trực tiếp kiểm sát (VKS các huyện, thị Long Khánh, Trảng Bom, Long Thành)
Ngoài ra Viện kiểm sát huyện, thị còn một số vi phạm khác như: Biểu mẫu 19 quy định không ghi thành phần đoàn trực tiếp kiểm sát nhưng VKS huyện Nhơn Trạch vẫn ghi. Một số đơn vị không nêu từng trường hợp vi phạm và viện dẫn, trích dẫn điều luật đã vi phạm mà chỉ nêu chung chung (VKS thị xã Long Khánh, huyện Tân Phú, Trảng Bom).
Tổng hợp: Thanh Tâm