1. Quan hệ phối hợp được đề ra trong các Chỉ thị của Bộ Chính trị về phòng, chống và kiểm soát ma túy...
1. Quan hệ phối hợp được đề ra trong các Chỉ thị của Bộ Chính trị về phòng, chống và kiểm soát ma túy
Tại Chỉ thị số 06/CT-TW ngày 30/11/1996 về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma tuý, Bộ Chính trị đã đề ra 7 yêu cầu, trong đó nêu rõ: Các cấp uỷ Đảng phải chỉ đạo chặt chẽ việc phối hợp hoạt động giữa các cơ quan Nhà nước với các đoàn thể nhân dân …
Trước tình hình ma túy phức tạp, ngày 26/3/2008 Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 21-CT/TW về tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma tuý trong tình hình mới. Trong đó, nêu rõ: “…cần tập trung vào lĩnh vực điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm về ma tuý... Coi trọng và xây dựng các quy chế phối hợp liên ngành ...”. Tiếp thu và quán triệt Chỉ thị Ban cán sự Đảng VKSND tối cao ban hành Kế hoạch số 46/KH-VKSTC ngày 02/7/2008 về triển khai thực hiện Chỉ thị số 21 trong toàn ngành KSND nêu rõ 4 mục đích yêu cầu, 8 nhiệm vụ, trong đó có vấn đề phối hợp.
Mới nhất, Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 16/8/2019 của Bộ Chính trị về tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống và kiểm soát ma tuý đã chỉ ra “...cần có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ của các cấp, các ngành”. Đây là văn bản rất quan trọng của Đảng đề ra các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cho các cấp ủy, tổ chức đảng, các cơ quan, ban ngành về thực hiện công tác phòng chống ma túy, trong đó có Viện kiểm sát.
2. Một số vấn đề lý luận về quan hệ phối hợp giữa VKSND với Cơ quan Cảnh sát điều tra trong điều tra, truy tố tội phạm về ma túy
2.1. Khái niệm, phạm vi nội dung và hình thức của quan hệ phối hợp
Quan hệ phối hợp giữa VKSND với Cơ quan Cảnh sát điều tra trong điều tra, truy tố tội phạm về ma tuý được hiểu là mối quan hệ phát sinh trong quá trình hai cơ quan thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo luật định để hỗ trợ, chế ước lẫn nhau, tạo điều kiện cho nhau khi giải quyết án ma tuý.
Mối quan hệ này được hình thành một cách tất yếu, thể hiện bằng các hình thức và cách thức thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan theo quy định của pháp luật thông qua hoạt động tố tụng hình sự của người tiến hành tố tụng được nhà nước trao quyền pháp lý nhằm giải quyết vụ án ma tuý một cách khách quan, công bằng và đúng người, đúng tội.
Mối quan hệ này chịu sự chi phối bởi phương pháp điều chỉnh của BLTTHS, Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự, trên cơ sở đó, các cơ quan tiến hành tố tụng được tiến hành các hoạt động tố tụng theo chức năng, nhiệm vụ của mình trong khuôn khổ pháp luật. Hai cơ quan này đều có nhiệm vụ làm rõ sự thật của vụ án, đảm bảo việc tuân thủ pháp luật một cách chặt chẽ, vừa phải đảm bảo những nguyên tắc của tố tụng hình sự, nguyên tắc tổ chức điều tra hình sự, vừa tuân thủ quy định của pháp luật về phòng, chống ma túy.
Mối quan hệ giữa VKSND với Cơ quan Cảnh sát điều tra trong giải quyết án ma tuý được pháp luật tố tụng hình sự quy định rất chặt chẽ theo một trình tự và thủ tục nghiêm ngặt.
Mục tiêu của quan hệ phối hợp: Quan hệ phối hợp giữa VKSND với Cơ quan Cảnh sát điều tra trong giải quyết các vụ án ma tuý không phải để giải quyết được nhiều vụ án ma tuý mà vấn đề cốt lõi ở đây là hai cơ quan phối hợp với nhau để đảm bảo thực hiện đúng quy định của pháp luật, giải quyết triệt để tận gốc tội phạm về ma tuý. Phối hợp để nâng cao chất lượng giải quyết án, để nắm vững tình hình diễn biến tội phạm ma tuý, thông qua phối hợp để kiến nghị khắc phục sai sót vi phạm và xây dựng kế hoạch phòng ngừa nhằm làm giảm tội phạm ma tuý.
Từ những vấn đề nêu trên, nhận thấy quan hệ phối hợp giữa VKSND với Cơ quan Cảnh sát điều tra trong điều tra, truy tố tội phạm về ma túy là mối quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan theo luật định, để hỗ trợ lẫn nhau cùng giải quyết vụ án ma túy theo quy định của tố tụng hình sự nhằm đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Phạm vi nội dung phối hợp: Được xác định từ thời điểm giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, trong suốt quá trình điều tra vụ án đến giai đoạn truy tố. Trong các hoạt động tố tụng có thể vừa có phối hợp, vừa có chế ước đan xen.
Các nội dung phối hợp được thể hiện qua các hình thức: Trao đổi trực tiếp, trao đổi qua điện thoại, tổ chức họp liên ngành, trao đổi bằng văn bản.
2.2. Căn cứ pháp lý, chủ thể
Quan hệ phối hợp được dựa trên nền tảng là BLTTHS, Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự, Luật Tổ chức VKSND. Đặc biệt, sau khi BLTTHS năm 2015, hàng loạt các văn bản hướng dẫn thực hiện BLTTHS đã được liên ngành các cơ quan tư pháp trung ương ban hành là căn cứ pháp lý thuận lợi cho việc thực hiện quan hệ phối hợp giữa VKSND với Cơ quan điều tra.
Theo quy định của Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015 và Văn bản hợp nhất số 07/VBHN-BCA ngày 19/11/2018 của Bộ Công an quy định về phân công Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, thẩm quyền điều tra hình sự trong Công an nhân dân và các đội điều tra thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện thì lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy ở Bộ Công an, Công an cấp tỉnh và Công an cấp huyện có chức năng điều tra tội phạm về ma túy cũng là cơ quan phối hợp với VKSND trong điều tra, truy tố tội phạm về ma túy. Nhiệm vụ, quyền hạn của cục, phòng và đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy quy định tại các Điều 8, 14, 20 của Văn bản hợp nhất số 07/VBHN-BCA. Chủ thể có thẩm quyền tiến hành các hoạt động điều tra vụ án hình sự nói chung, vụ án ma túy nói riêng thực hiện theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 34 BLTTHS năm 2015 gồm: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên và Cán bộ điều tra, là chủ thể trực tiếp thực hiện quan hệ phối hợp[1].
Theo quy định của Luật Tổ chức VKSND năm 2014 thì cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra là VKSND. Đơn vị thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án ma túy của VKSND có quan hệ phối hợp với Cơ quan Cảnh sát điều tra trong điều tra, truy tố tội phạm về ma túy là Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án ma túy (Vụ 4) VKSND tối cao; Phòng Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm án an ninh, ma tuý (hoặc phòng Kiểm sát điều tra trật tự an toàn xã hội - an ninh, ma tuý; phòng Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra an ninh, ma tuý, kinh tế, trị an xã hội) ở VKSND cấp tỉnh và tổ án hình sự ở VKSND cấp huyện. Hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của VKSND được thực hiện thông qua thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của những người tiến hành tố tụng trong tố tụng hình sự gồm: Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên (điểm b khoản 2 Điều 34 BLTTHS năm 2015), là những chủ thể trực tiếp thực hiện quan hệ phối hợp[2] với Cơ quan điều tra.
Xác định tầm quan trọng của quan hệ phối hợp trong giải quyết án ma túy, ngày 27/10/2010, giữa Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án ma túy VKSND tối cao với Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Bộ Công an đã ký Quy chế phối hợp công tác giữa hai đơn vị. Nhiều VKSND địa phương cũng đã ký Quy chế phối hợp với Cơ quan điều tra cùng cấp trong đấu tranh phòng, chống ma túy hoặc trong phối hợp giải quyết án ma túy.
Cũng trong năm 2017 và 2018, liên ngành tư pháp trung ương đã ban hành 03 Thông tư liên tịch về quan hệ phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong thực hiện BLTTHS năm 2015. Đây là căn cứ pháp lý để thực hiện quan hệ phối hợp giữa VKSND với Cơ quan Cảnh sát điều tra trong giải quyết vụ án hình sự nói chung, trong điều tra, truy tố đối với án ma túy nói riêng[3].
Với những kết quả khả quan, sau hơn sau 7 năm thực hiện Quy chế phối hợp giải quyết án ma túy, căn cứ BLHS năm 2015, BLTTHS năm 2015, Luật Tổ chức VKSND năm 2014, Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015, ngày 12/12/2017 Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án ma túy VKSND tối cao và Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Bộ Công an đã ký kết Quy chế phối hợp công tác, cập nhật những quy định mới và bổ sung thêm nội dung phối hợp trong giải quyết án ma túy.
2.3. Các nội dung phối hợp
Trong tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 22/12/2017 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và VKSND tối cao quy định việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Trong đó, lưu ý cả Cơ quan điều tra và VKSND đều phải tổ chức trực ban để tiếp nhận tố giác, tin báo tội phạm về ma túy, kiến nghị khởi tố 24/24h, đảm bảo bí mật nghiệp vụ, bảo vệ người tố giác.
Cơ quan Cảnh sát điều tra, VKSND khi nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố qua dịch vụ bưu chính, điện thoại hoặc qua phương tiện thông tin khác thì ghi vào sổ tiếp nhận. Nếu cá nhân trực tiếp đến tố giác về tội phạm hoặc đại diện cơ quan, tổ chức trực tiếp đến báo tin về tội phạm thì lập biên bản tiếp nhận và ghi vào sổ tiếp nhận. Có thể ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc tiếp nhận. Viện kiểm sát sau khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố phải chuyển ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền giải quyết trong thời hạn không quá 24 giờ kể từ khi tiếp nhận, trường hợp không thể chuyển ngay thì phải thông báo nhanh nhất cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền biết. Kiểm sát viên phải khai thác tối đa thông tin về tin báo, tố giác về tội phạm về ma túy từ người cung cấp tin báo hoặc người bàn giao hồ sơ về việc giải quyết tố giác, tin báo của CQĐT, yêu cầu cung cấp đầy đủ, hỏi ngay về các nội dung liên quan nếu thấy chưa rõ.
Đối với tố giác, tin báo về tội phạm sau khi tiếp nhận đã rõ về dấu hiệu của tội phạm về ma túy, đủ căn cứ để khởi tố vụ án hình sự thì cấp trưởng ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và thực hiện trình tự, thủ tục theo quy định của BLTTHS năm 2015, không phải ra quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm.
Trong quá trình điều tra, truy tố
Quan hệ phối thực hiện theo quy định của Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 của VKSND tối cao, Bộ Công an và Bộ Quốc phòng quy định về phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS. Phối hợp trong từng hoạt động điều tra và trong suốt quá trình điều tra, truy tố, trong đó đối với án ma túy cần đặc biệt quan tâm:
Hồ sơ, tài liệu đề nghị phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, các lệnh bắt, tạm giam, khám xét... của Cơ quan điều tra phải đảm bảo có đủ căn cứ xác định người đó đã thực hiện hành vi phạm tội về ma túy gửi đến Viện kiểm sát.
Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra phải thực hiện yêu cầu, quyết định của Viện kiểm sát (Điều 162, 167, 236, 238 BLTTHS). Nếu không nhất trí (Quyết định quy định tại khoản 1, khoản 6 Điều 159, điểm b khoản 1 Điều 161, khoản 4, khoản 5 Điều 165 BLTTHS), Cơ quan điều tra vẫn phải thực hiện nhưng có quyền kiến nghị với Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp xem xét, giải quyết.
Điều tra viên và Kiểm sát viên chủ động phối hợp chặt chẽ từ khi phá án, bắt đối tượng, thu thập chứng cứ... thường xuyên trao đổi kết quả điều tra và dự kiến tình huống phát sinh, giải quyết mâu thuẫn trong quá trình điều tra, đảm bảo thời hạn, đúng quy định. Mặt khác, Kiểm sát viên phải nghiên cứu kỹ hồ sơ, nắm chắc tiến độ điều tra, kết quả hoạt động điều tra, thống nhất những vấn đề cần điều tra, xác minh với Điều tra viên.
Các vụ án ma túy Viện kiểm sát trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra thấy cần phối hợp với Cơ quan điều tra thì chậm nhất 24 giờ trước khi tiến hành Viện kiểm sát thông báo cho Cơ quan điều tra thời gian, địa điểm tiến hành để phân công Điều tra viên cùng phối hợp thực hiện; nếu Điều tra viên vắng mặt thì chậm nhất 02 giờ trước khi Kiểm sát viên tiến hành một số hoạt động điều tra, Điều tra viên phải thông báo cho Kiểm sát viên biết.
Các vụ án ma túy có áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt thì trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt theo quy định tại Điều 223 và Điều 224 BLTTHS, Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh trở lên phải có hồ sơ đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.
Đối với các vụ án ma túy thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng trước khi kết thúc điều tra hoặc hết thời hạn điều tra vụ án, Điều tra viên và Kiểm sát viên phải phối hợp để đánh giá toàn bộ chứng cứ, tài liệu và các thủ tục tố tụng của vụ án, nếu thấy có đủ căn cứ kết thúc điều tra thì thống nhất để Điều tra viên báo cáo Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra kết thúc điều tra vụ án; nếu thấy cần phải tiếp tục điều tra thì báo cáo Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát để gia hạn thời hạn điều tra, tạm giam bị can theo quy định của BLTTHS.
Trong giai đoạn truy tố, ngay sau khi nhận hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên phải kiểm tra thời hạn tạm giam bị can và đề xuất gia hạn theo quy định, đồng thời chủ động kiểm tra hồ sơ, tài liệu, nếu thấy chưa đầy đủ, có thể yêu cầu Điều tra viên bổ sung để tránh trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung; trường hợp cần thiết tiến hành một số hoạt động điều tra theo luật định, mời Điều tra viên tham gia phối hợp.
Khi hồ sơ vụ án và cáo trạng đã chuyển đến Tòa án nhân dân có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, Điều tra viên, Kiểm sát viên thụ lý vụ án tiếp tục trao đổi để Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm tiếp nhận nắm vững hồ sơ, diễn biến tâm lý từng bị can. Nếu Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm thấy thiếu tài liệu, cần thiết phải bổ sung thì Điều tra viên, Kiểm sát viên thụ lý giai đoạn điều tra (trong trường hợp Kiểm sát viên không thụ lý thông khâu) vụ án thực hiện.
Kiểm tra, hướng dẫn, chỉ đạo và một số việc khác
Đơn vị thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án ma túy của VKSND tối cao, VKSND cấp tỉnh phối hợp với lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy cùng cấp thành lập đoàn kiểm tra tại các đơn vị có nhiều tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố về án ma túy, có án tạm đình chỉ, án oan sai có tình tiết phức tạp để nắm tình hình thực tế, ban hành kết luận sau khi kiểm tra và đề xuất kiến nghị biện pháp khắc phục, sửa chữa vi phạm.
Đối với vụ án ma túy do địa phương thỉnh thị có khó khăn, vướng mắc Cơ quan Cảnh sát điều tra cấp trên, Cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án ma túy cấp trên có trách nhiệm nghiên cứu, trả lời theo quy chế nghiệp vụ của mỗi ngành. Trường hợp các vụ án phức tạp, cơ quan tố tụng địa phương có quan điểm khác nhau thì hai đơn vị cấp trên được xin ý kiến thỉnh thị cùng nghiên cứu và thống nhất trước khi trả lời.
VKSND và Cơ quan Cảnh sát điều tra mở số thụ lý theo dõi giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo về các vụ án ma túy do Cơ quan Cảnh sát điều tra cùng cấp thụ lí điều tra, kiểm sát điều tra hoặc án ma túy của cấp dưới thụ lý giải quyết. Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thực hiện theo đúng thẩm quyền và quy định của pháp luật liên quan.
Quá trình giải quyết vụ án ma túy có phát sinh yêu cầu tương trợ tư pháp thì trước khi lập hồ sơ ủy thác tương trợ tư pháp, hai đơn vị cần trao đổi thống nhất về những nội dung cần yêu cầu tương trợ, đồng thời có sự phối hợp, hỗ trợ nhau chuẩn bị hồ sơ, tài liệu theo quy định của pháp luật.
3. Thực trạng quan hệ phối hợp
3.1. Trong tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố
Lãnh đạo VKSND tối cao thường xuyên chỉ đạo các đơn vị thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án ma túy phải kiểm sát chặt chẽ ngay từ khi tiếp nhận tố giác, tin báo tội phạm về ma túy và kiến nghị khởi tố, phân loại chính xác, xử lý đúng thẩm quyền. Một số vụ Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc Viện kiểm sát trực tiếp khởi tố.
3.2. Phối hợp trong quá trình điều tra, truy tố
Theo số liệu thống kê của VKSND tối cao trong 10 năm (2008 – tháng 6/2018) cho thấy, số vụ án ma túy toàn Ngành thụ lý cơ bản năm sau cao hơn năm trước, với tổng số thụ lý kiểm sát điều tra là 152.504 vụ/192.602 bị can[4].
Quá trình giải quyết án, Kiểm sát viên chủ động kịp thời đề ra yêu cầu điều tra, kịp thời phê chuẩn các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, phối hợp trong hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, thực nghiệm điều tra, kiểm sát việc trưng cầu giám định chất ma túy, kiểm sát việc áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt... nắm chắc tiến độ điều tra, kiểm sát chặt chẽ việc thu thập, đánh giá chứng cứ của Cơ quan điều tra, hạn chế thấp nhất án trả hồ sơ để điều tra bổ sung, phấn đấu không để xảy ra oan, sai, để lọt tội phạm.
Viện kiểm sát đã truy tố 144.517 vụ/183.214 bị can6 phạm các tội về ma túy. Các vụ án đều được truy tố đúng người, đúng tội, đảm bảo thời hạn truy tố. Kiểm sát viên chủ động tiến hành phúc cung, phối hợp với Điều tra viên để đối chất, lấy lời khai người làm chứng, thực nghiệm điều tra khi thấy cần thiết.
VKSND địa phương tích cực phối hợp với Cơ quan điều tra và Tòa án cùng cấp xác định, tập trung giải quyết tốt nhiều vụ án lớn, án điểm, án xét xử lưu động, góp phần phục vụ nhiệm vụ chính trị tại địa phương.
Bên cạnh đó, Viện kiểm sát chú trọng phát hiện sai sót, vi phạm của Cơ quan Cảnh sát điều tra, tập hợp và kiến nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra khắc phục, rút kinh nghiệm. Hàng năm, VKSND các cấp đã ban hành nhiều kiến nghị với Cơ quan Cảnh sát điều tra về việc xử lý tội phạm ma tuý liên quan đến ma tuý từ biên giới, cửa khẩu, về giám định chất ma tuý, kiến nghị cơ quan tổ chức hữu quan khắc phục sở hở trong quản lý...
3.3. Phối hợp trong kiểm tra, hướng dẫn, chỉ đạo và một số việc khác
VKSND tối cao và VKSND cấp tỉnh luôn chú trọng công tác kiểm tra, hướng dẫn, chỉ đạo công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử sơ thẩm án ma túy của Viện kiểm sát cấp dưới, đặc biệt từ năm 2012 đến nay thực hiện chủ trương “Đổi mới, kỷ cương, hướng về cơ sở”, có đơn vị xác định khâu công tác đột phá, trọng tâm của năm là công tác kiểm tra, hướng dẫn, chỉ đạo Viện kiểm sát cấp dưới trực tiếp.
Từ tháng 10/2018 - 9/2019, Vụ 4 VKSND tối cao đã có 12 công văn trao đổi với Cục C04 Bộ Công an để phối hợp giải quyết các vụ án ma túy về thẩm quyền điều tra, đường lối giải quyết vụ án, áp dụng pháp luật, xác định đồng phạm, yêu cầu bổ sung tài liệu, về trưng cầu và kết quả giám định, xử lý tài sản tạm giữ... tạo sự thống nhất, đồng thuận trong tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho cấp dưới. Điển hình là các vụ án: Nguyễn Minh Quy ở Yên Bái; vụ Hồ Hữu Trí ở Thừa Thiên-Huế, vụ Nguyễn Việt Linh ở Hải Phòng...
Các hoạt động giải quyết khiếu nại tố cáo, tương trợ tư pháp về hình sự trong 2 giai đoạn tố tụng này được phối hợp chặt chẽ, đảm bảo đúng quy định.
3.4. Đánh giá chung
Ưu điểm nổi bật VKSND nắm được thông tin, tài liệu giải quyết án của Cơ quan điều tra và Cơ quan điều tra cũng nắm được kết quả giải quyết của VKSND; hai cơ quan đã chủ động phối hợp ngay từ khi có dấu hiệu phạm tội cho nên ngày càng phát hiện, khám phá được nhiều vụ án ma tuý lớn cả về số lượng bị can lẫn số lượng ma túy; sự phối hợp chặt chẽ, việc xử lý kịp thời, nghiêm minh tội phạm về ma túy được dư luận đồng tình ủng hộ góp phần củng cố niềm tin của nhân dân.
Một số hạn chế, khiếm khuyết:
- Có lúc, có nơi, 2 cơ quan chưa thật sự chủ động trong quan hệ phối hợp: Điều tra viên không chủ động trao đổi với Kiểm sát viên, Kiểm sát viên không nắm được đầy đủ về vụ án, bị lúng túng, đề xuất xử lý không chuẩn xác, dẫn đến bị trả điều tra bổ sung, Toà án xử không tội hoặc bị huỷ án.
- Cơ sở pháp lý của quan hệ phối hợp giải quyết án hình sự nói chung, án ma tuý nói riêng không có giới hạn, không có quy định phối hợp đến đâu là đủ nên dẫn đến một số vụ án có sự ỷ lại, trông chờ nhau dẫn đến chậm tiến độ hoặc việc phối hợp có khi chưa đúng mức, dẫn đến vi phạm tính độc lập của mỗi cơ quan, có vụ phải họp nhiều lần, làm giảm tính chủ động mỗi ngành.
- Các vụ án khó xác định tội danh, có quan điểm khác nhau về đánh giá chứng cứ, mỗi cơ quan đều giữ nguyên tắc bảo vệ quan điểm của mình đến cùng, thiếu sự phối hợp, dẫn đến vụ án bị kéo dài. Vướng mắc chủ yếu là do đánh giá chứng cứ, xác định tính chất, mức độ tội phạm, quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn, đường lối xử lý khác nhau.
Nguyên nhân: Nhận thức của một số Điều tra viên, Kiểm sát viên về quan hệ phối hợp chưa đúng mức, có khi chưa làm hết trách nhiệm; có văn bản hướng dẫn còn có những cách hiểu và vận dụng khác nhau; tội phạm ma tuý ngày càng phức tạp trong khi biên chế, chế độ đãi ngộ cán bộ, kinh phí chưa đáp ứng yêu cầu...
TS Nguyễn Thị Mai Nga, Phó Tổng biên tập Tạp chí Kiểm sát
[1] Nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên và Cán bộ điều tra xem các điều 36, 37, 38 BLTTHS năm 2015.
[2] Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên xem các điều 41, 42, 43 BLTTHS năm 2015.
[3] Các Thông tư liên tịch: số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 22/12/2017 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và VKSND tối cao quy định việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày 29/12/2017 của VKSND tối cao, Bộ Công an và Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành các qui định của BLTTHS về trả hồ sơ để điều tra bổ sung; số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày 19/10/2018 của VKSND tối cao, Bộ Công an và Bộ Quốc phòng quy định về phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS.
[4],6 Báo cáo số 108-BC/BCSĐ ngày 19/9/2018 của Ban cán sự Đảng VKSND tối cao về tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 26/3/2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình hình mới.