Viện kiểm sát nhân dân tối cao phối hợp với Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao xây dựng Thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Là cơ quan chủ trì soạn thảo, Website Viện kiểm sát nhân dân tối cao đăng tải dự thảo Thông tư liên tịch trên lấy ý kiến tham gia của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Ý kiến tham gia gửi về Viện kiểm sát nhân dân tối cao: Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án ma túy (Vụ 1C), hoặc Email: phuongha@vksndtc.gov.vn để tổng hợp, chỉnh lý.
VKSNDTC lấy ý kiến tham gia
dự thảo văn bản quy phạm pháp luật
Viện kiểm sát nhân dân tối cao phối hợp với Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao xây dựng Thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Là cơ quan chủ trì soạn thảo, Website Viện kiểm sát nhân dân tối cao đăng tải dự thảo Thông tư liên tịch trên lấy ý kiến tham gia của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Ý kiến tham gia gửi về Viện kiểm sát nhân dân tối cao: Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án ma túy (Vụ 1C), hoặc Email: phuongha@vksndtc.gov.vn để tổng hợp, chỉnh lý.
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
BỘ CÔNG AN Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Số: /2009/TTLT-VKSNDTC- Hà Nội, ngày tháng 12 năm 2009
BCA - TANDTC
THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
Hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
về trả hồ sơđểđiều tra bổ sung
Để thi hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an và Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
Điều 1. Về "Những chứng cứ quan trọng đối với vụ án"
1. "Những chứng cứ quan trọng đối với vụ án"quy định tại khoản 1 Điều 168 và điểm a khoản 1 Điều 179 Bộ luật tố tụng hình sự là những chứng cứ dùng để kết luận những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự theo quy định tại Điều 63 Bộ luật tố tụng hình sự, nếu thiếu những chứng cứ này thì vụ án không thể giải quyết được khách quan, toàn diện, đúng pháp luật.
2. Những trường hợp sau đây được coi là những chứng cứ quan trọng đối với vụ án:
a) Chứng cứ để kết luận "có hành vi phạm tội xảy ra hay không" là những chứng cứ để xác định có đầy đủ các yếu tố của cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự hay thuộc các trường hợp không phải là hành vi phạm tội (phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ, quan hệ dân sự, kinh tế, vi phạm hành chính...).
b) Chứng cứ để kết luận về "thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội" là những chứng cứ xác định về thời gian, địa điểm xảy ra hành vi phạm tội, phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm.
c) Chứng cứ để kết luận "người thực hiện hành vi phạm tội" là những chứng cứ kết luận về một con người cụ thể có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đã thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật hình sự.
d) Chứng cứ để kết luận "có năng lực trách nhiệm hình sự hay không" là những chứng cứ xác định bị can, bị cáo khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; có mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình hay không.
đ) Chứng cứ để kết luận chính xác tuổi của bị can, bị cáo, người bị hại khi nghi ngờ họ là trẻ em, người chưa thành niên có liên quan đến việc xác định năng lực trách nhiệm hình sự và giải quyết vụ án.
e) Chứng cứ để kết luận "có lỗi hay không có lỗi" là những chứng cứ để xác định khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội người đó có lỗi hay không có lỗi; nếu có lỗi thì thuộc trường hợp lỗi cố ý (lỗi cố ý trực tiếp hay lỗi cố ý gián tiếp) hoặc lỗi vô ý (lỗi vô ý do quá tự tin hay lỗi vô ý do cẩu thả) theo quy định tại Điều 9 và Điều 10 Bộ luật hình sự.
g) Chứng cứ để kết luận "mục đích, động cơ phạm tội" trong trường hợp quy định mục đích, động cơ phạm tội là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm hoặc là căn cứ để giải quyết vụ án.
h) Chứng cứ để kết luận những tình tiết định khung hình phạt, tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo có ý nghĩa đối với việc xem xét khi quyết định hình phạt.
i) Chứng cứ để kết luận về "tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra" là những chứng cứ để đánh giá tính chất, hậu quả của hành vi phạm tội trong trường hợp quy định là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm hoặc là căn cứ để giải quyết vụ án.
k) Chứng cứ để kết luận về vị trí, vai trò của người phạm tội trong vụ án có đồng phạm liên quan đến việc cá thể hoá trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo.
l) Lời khai của nhân chứng, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án nhưng chưa được thu thập nên không có căn cứ để đánh giá chứng cứ và kết luận về hành vi phạm tội của bị can, bị cáo.
m) Chứng cứ để kết luận về hành vi phạm tội, người phạm tội có mâu thuẫn nhưng chưa thực hiện các biện pháp điều tra theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự như: đối chất, nhận dạng, dựng lại hiện trường, thực nghiệm điều tra, khai quật tử thi, giám định, giám định lại hoặc giám định bổ sung, để khẳng định hay bác bỏ các tài liệu, chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án.
3. Những chứng cứ khác được coi là quan trọng đối với vụ án nếu có đủ các căn cứ như hướng dẫn tại khoản 1 Điều này và phải ghi rõ trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
4. Khi áp dụng căn cứ "Những chứng cứ quan trọng đối với vụ án" theo hướng dẫn tại khoản 1 và khoản 2 Điều này để trả hồ sơ điều tra bổ sung, Viện kiểm sát, Toà án cần lưu ý thực hiện như sau:
a) Trong trường hợp "Thiếu chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được" theo quy định tại khoản 1 Điều 168 BLTTHS thì Viện kiểm sát mới quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Nếu thiếu chứng cứ nhưng không quan trọng đối với vụ án hoặc chứng cứ quan trọng đối với vụ án nhưng Viện kiểm sát có thể tự mình bổ sung được thì không trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
b) Trong trường hợp "Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên toà được" theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 179 BLTTHS thì Toà án mới trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Nếu thiếu những chứng cứ không quan trọng hoặc không cần phải xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án hoặc có thể bổ sung tại phiên toà được thì Toà án không trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Điều 2. Về "Bị can, bị cáo phạm một tội khác hoặc có người đồng phạm khác"
1."Bị can, bị cáo phạm một tội khác hoặc có người đồng phạm khác" quy định tại khoản 2 Điều 168 và điểm b khoản 1 Điều 179 của Bộ luật tố tụng hình sự thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Khởi tố hoặc truy tố về tội không đúng với tội phạm mà bị can, bị cáo đã thực hiện.
b) Ngoài tội phạm đã khởi tố, truy tố còn có căn cứđể khởi tố, truy tố bị can, bị cáo về tội phạm khác.
c) Ngoài bị can, bị cáo đã bị khởi tố, truy tố còn có người đồng phạm khác hoặc người phạm tội khác có liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố, truy tố.
2. Khi áp dụng căn cứ "bị can, bị cáo phạm một tội khác hoặc có người đồng phạm khác" để trả hồ sơ điều tra bổ sung, Viện kiểm sát, Toà án cần chú ý thực hiện như sau:
a) Trường hợp thuộc điểm a khoản 1 Điều này, nếu Toà án thấy bị cáo phạm tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố thì Toà án không trả hồ sơ điều tra bổ sung để thay đổi tội danh mà có thể xét xử bị cáo theo quy định tại điểm 2.2 Điều 2 mục II Nghị quyết 04/2004/NQ-HĐTP ngày 5/11/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
b) Trường hợp quy định tại điểm b, c khoản 1 Điều này, nếu không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan và toàn diện của vụ án thì Viện kiểm sát vẫn truy tố, Toà án vẫn xét xử vụ án mà không phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung; đối với hành vi phạm tội hoặc người phạm tội chưa bị khởi tố, truy tố thì tách ra để điều tra, xử lý sau theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 117 Bộ luật tố tụng hình sự.
c) Trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều này nếu trong thời hạn quyết định truy tố, thời hạn chuẩn bị xét xử mà có căn cứđể nhập vụ án thì Viện kiểm sát hoặc Toà án ra quyết định trả hồ sơđiều tra bổ sung để khởi tố, truy tố, xét xử người đồng phạm khác trong cùng một vụ án theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 117 Bộ luật tố tụng hình sự.
Điều 3. Về "Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hình sự"
1."Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng"quy định tại khoản 3 Điều 168 và điểm c khoản 1 Điều 179 của Bộ luật tố tụng hình sự là trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bịđơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc làm cho việc giải quyết vụ án thiếu khách quan toàn diện.
2. Những trường hợp sau đây được coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hình sự:
a) Lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra và cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra mà theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát nhưng không có phê chuẩn của Viện kiểm sát hoặc việc ký lệnh, quyết định tố tụng không đúng thẩm quyền.
b) Không yêu cầu cử người bào chữa cho bị can, bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 57 của Bộ luật tố tụng hình sự.
c) Xác định không đúng tư cách tham gia tố tụng của người tham gia tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
d) Khởi tố vụ án hình sự nhưng không có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại theo quy định tại khoản 1 Điều 105 của Bộ luật tố tụng hình sự.
đ) Nhập vụ án hoặc tách vụ án không có căn cứ và trái với quy định tại Điều 117 của Bộ luật tố tụng hình sự dẫn đến việc giải quyết vụ án thiếu khách quan, bỏ lọt tội phạm và người phạm tội.
e) Không giao các lệnh, quyết định tố tụng cho bị can, bị cáo theo đúng quy định của pháp luật xâm phạm đến quyền bào chữa của bị can, bị cáo.
g) Chưa điều tra, lập lý lịch của bị can để xác định những đặc điểm quan trọng về nhân thân người có hành vi phạm tội (tuổi, tiền án, tiền sự của bị can, bị cáo).
h) Không có người phiên dịch cho bị can, bị cáo trong trường hợp họ không sử dụng được tiếng Việt theo quy định tại Điều 61 của Bộ luật tố tụng hình sự.
i) Không từ chối tiến hành tố tụng hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng trong các trường hợp quy định tại Điều 42, Điều 60 và Điều 61 của Bộ luật tố tụng hình sự.
k) Việc điều tra, thu thập chứng cứ quan trọng đối với vụ án không đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên không có giá trị chứng minh trong vụ án hình sự.
l) Chứng cứ, tài liệu quan trọng đối với vụ án đã được thu thập trong quá trình điều tra, truy tố nhưng không đưa vào hồ sơ vụ án hoặc bị sửa chữa, thêm bớt làm sai lệch hồ sơ vụ án.
m) Việc điều tra, truy tố không đúng thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
n) Có căn cứ để xác định có việc mớm cung, bức cung, nhục hình trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự làm cho lời khai của bị can không đúng sự thật.
o) Những khiếu nại, tố cáo của bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không được giải quyết theo đúng quy định của pháp luật đã xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích của họ.
3. Những trường hợp khác được coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nếu có đủ các căn cứđã hướng dẫn tại khoản 1 Điều này và phải ghi rõ trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
4. Khi áp dụng căn cứ “Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều này để trả hồ sơ điều tra bổ sung, Viện kiểm sát và Tòa án cần lưu ý thực hiện như sau:
a) Đối với những vi phạm thủ tục tố tụng không nghiêm trọng và không xâm hại nghiêm trọng đến quyền lợi của bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thì không được trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
b) Đối với bị can là người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra nhưng đến khi truy tố, xét xử người đó đã đủ 18 tuổi, nếu bị can, bị cáo hoặc đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì Viện kiểm sát hoặc Tòa án vẫn truy tố, xét xử mà không phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung yêu cầu bắt buộc phải có người bào chữa.
Điều 4. Về thời hạn trả hồ sơ và thời hạn điều tra bổ sung
1. Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong thời hạn truy tố quy định tại khoản 1 Điều 166 của Bộ luật tố tụng hình sự. Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung trong thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 176 của Bộ luật tố tụng hình sự. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, nếu phát hiện có căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát, Tòa án phải kịp thời ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, không được để hết thời hạn truy tố hoặc hết thời hạn chuẩn bị xét xử mới quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
2. Thời hạn điều tra bổ sung theo quy định tại khoản 2 Điều 121 của Bộ luật tố tụng hình sự do Viện kiểm sát trả hồ sơ không quá hai tháng, do Toà án trả hồ sơ không quá một tháng tính từ ngày Cơ quan điều tra nhận lại hồ sơ vụ án và quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung đến khi Cơ quan điều tra có bản kết luận điều tra bổ sung.
Điều 5. Yêu cầu đối với Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung
1. Việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng được thể hiện bằng quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, ghi rõ ngày, tháng, năm và lần trả hồ sơ (thứ nhất hoặc lần thứ hai) và phải do người có thẩm quyền ký quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
2. Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung phải ghi cụ thể “những chứng cứ quan trọng đối với vụ án” cần phải điều tra bổ sung, “tội khác hoặc người đồng phạm khác” phải khởi tố, truy tố hoặc “những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” cần được khắc phục và nêu rõ căn cứ pháp luật quy định tại một trong các khoản 1, 2, 3 Điều 168 hoặc một trong các điểm a, b, c khoản 1 Điều 179 của Bộ luật tố tụng hình sự.
3. Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung phải ghi rõ thời hạn điều tra bổ sung đối với từng trường hợp. Nếu yêu cầu điều tra bổ sung không phức tạp thì Viện kiểm sát hoặc Tòa án có thể quyết định thời hạn điều tra bổ sung ngắn hơn thời hạn pháp luật đã quy định để bảo đảm giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời.
4. Trong trường hợp tiếp tục phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung, thì Quyết định phải nêu rõ những vấn đề yêu cầu điều tra bổ sung lần trước chưa được điều tra bổ sung hoặc đã điều tra bổ sung nhưng chưa đạt yêu cầu hoặc từ kết quả điều tra bổ sung làm phát sinh vấn đề mới cần điều tra.
Điều 6. Việc thực hiện quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung
1. Cơ quan điều tra có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các nội dung nêu trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Viện kiểm sát theo quy định tại Điều 114 của Bộ luật tố tụng hình sự; nếu thấy quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Viện kiểm sát không có căn cứ theo hướng dẫn tại các điều 1, 2, 3 của Thông tư này thì sau khi nhận hồ sơ vụ án Cơ quan điều tra phải có văn bản nêu rõ lý do, quan điểm đối với việc giải quyết vụ án và chuyển lại hồ sơ cho Viện kiểm sát.
2. Sau khi nhận được hồ sơ vụ án và quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Toà án, nếu thấy quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Toà án có căn cứ mà không thể tự mình bổ sung được thì Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung và chuyển ngay hồ sơ cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra; nếu thấy quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Toà án không có căn cứ thì Viện kiểm sát có văn bản nêu rõ lý do giữ nguyên quyết định truy tố và chuyển lại hồ sơ cho Toà án để đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại khoản 2 Điều 179 của Bộ luật tố tụng hình sự.
3. Sau khi kết thúc điều tra bổ sung, Cơ quan điều tra phải có bản kết luận điều tra bổ sung, trong đó kết luận rõ đối với từng vấn đề điều tra bổ sung và quan điểm giải quyết vụ án. Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn đến đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ theo thẩm quyền quy định tại Điều 164, 169 của Bộ luật tố tụng hình sự.
4. Nếu kết quả điều tra bổ sung không làm thay đổi quyết định truy tố thì Viện kiểm sát có văn bản nêu rõ lý do giữ nguyên quyết định truy tố và chuyển lại hồ sơ cho Toà án; nếu kết quả điều tra bổ sung làm thay đổi quyết định truy tố thì Viện kiểm sát ban hành cáo trạng mới thay thế cáo trạng cũ và chuyển hồ sơ đến Toà án để xét xử.
Điều 7. Phối hợp giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra trong giai đoạn điều tra nhằm hạn chế việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung
1. Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra phải phối hợp chặt chẽ ngay từ khi tiếp nhận, phân loại, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và trong suốt quá trình điều tra vụ án. Điều tra viên phải chủđộng gửi đầy đủ, kịp thời các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được cho Kiểm sát viên thụ lý vụ án và thực hiện đầy đủ các yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát. Kiểm sát viên phải thường xuyên theo dõi, nắm chắc tiến độ điều tra vụ án, nghiên cứu kỹ các tài liệu, chứng cứ do Điều tra viên đã thu thập, kịp thời đề ra yêu cầu điều tra, chủ động phối hợp với Điều tra viên để điều tra làm rõ những vấn đề cần chứng minh ngay trong giai đoạn điều tra vụ án; đồng thời kiểm sát chặt chẽ các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra, bảo đảm việc điều tra vụ án khách quan, toàn diện, đúng pháp luật.
2. Trước khi kết thúc điều tra vụ án, Điều tra viên và Kiểm sát viên phải phối hợp để đánh giá các chứng cứ, tài liệu đã thu thập, bảo đảm đầy đủ, hợp pháp; nếu phát hiện còn thiếu chứng cứ, vi phạm thủ tục tố tụng hoặc còn bỏ lọt tội phạm, người phạm tội khác thì phải bổ sung, khắc phục ngay trong giai đoạn điều tra. Đối với những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp trước khi kết thúc điều tra vụ án, Điều tra viên và Kiểm sát viên phải phối hợp hỏi cung tổng hợp đối với các bị can; đồng thời, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát phải tiến hành sơ kết đánh giá toàn diện kết quả điều tra vụ án, chỉ đạo điều tra giải quyết những vấn đề còn mâu thuẫn, tồn tại và quyết định việc kết thúc điều tra, hướng xử lý vụ án theo đúng theo quy định của pháp luật.
Điều 8. Phối hợp giữa Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, Tòa án trong giai đoạn truy tố
1. Sau khi nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, Kiểm sát viên phải nghiên cứu thật kỹ hồ sơ, kiểm tra việc tuân thủ các thủ tục tố tụng, tính đầy đủ các tài liệu, chứng cứ của vụ án. Trong trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên phải trực tiếp hỏi cung tổng hợp đối với từng bị can trong vụ án. Nếu thấy còn thiếu chứng cứ, tài liệu hoặc có vi phạm thủ tục tố tụng mà tự mình có thể bổ sung được thì Kiểm sát viên phối hợp với Điều tra viên để bổ sung, khắc phục kịp thời; trường hợp không thể bổ sung được thì Kiểm sát viên phải báo cáo Lãnh đạo Viện kiểm sát hoặc Thủ trưởng đơn vị để xem xét, quyết định.
2. Trong thời hạn truy tố, nếu thấy vụ án có những vấn đề phức tạp về chứng cứ, tội danh của Bộ luật hình sự cần áp dụng, Kiểm sát viên báo cáo Lãnh đạo Viện kiểm sát hoặc Thủ trưởng đơn vịđể trao đổi với Lãnh đạo Cơ quan điều tra, Lãnh đạo Tòa án xem xét, giải quyết.
3. Nếu thấy việc điều tra bổ sung phức tạp, Viện kiểm sát chủđộng tổ chức họp liên ngành để làm rõ những vấn đề cần phải điều tra bổ sung nhằm bảo đảm việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung đúng trọng tâm, triệt để và kịp thời.
Điều 9. Phối hợp giữa Viện kiểm sát và Tòa án trong giai đoạn xét xử
1. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, sau khi nghiên cứu hồ sơ thấy còn thiếu những chứng cứ quan trọng, có vi phạm thủ tục tố tụng, bị can phạm vào tội khác hoặc có đồng phạm khác, thì Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa trao đổi với Kiểm sát viên để có biện pháp khắc phục kịp thời hoặc có thể bổ sung được tại phiên tòa mà không phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Nếu Kiểm sát viên và Thẩm phán chưa thống nhất ý kiến, thì báo cáo lãnh đạo liên ngành chỉđạo giải quyết.
2. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên chủđộng phối hợp với Hội đồng xét xử làm rõ những chứng cứ liên quan đến việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Trong trường hợp phát sinh những vấn đề mới hoặc phức tạp mà không bổ sung được, thì Hội đồng xét xử mới trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
3. Đối với vụ án do Viện kiểm sát cấp trên thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và giao cho Viện kiểm sát cấp dưới để thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử sơ thẩm nếu phát hiện có căn cứ để trả hồ sơ điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát cấp dưới trao đổi với Toà án cùng cấp để làm rõ những vấn đề điều tra bổ sung, trước khi Viện kiểm sát cấp dưới báo cáo với Viện kiểm sát cấp trên xem xét, quyết định.
Điều 10. Quản lý việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung
1. Các cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm quản lý việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở cấp mình. Viện kiểm sát có trách nhiệm quản lý về số vụ, số lần trả hồ sơ để điều tra bổ sung của các cơ quan tiến hành tố tụng cùng cấp. Viện kiểm sát cấp tỉnh có trách nhiệm tổng hợp, đánh giá tình hình trả hồ sơ để điều tra bổ sung của cơ quan tiến hành tố tụng cấp tỉnh và cấp huyện thuộc địa phương quản lý.
2. Định kỳ (hàng tháng, hàng quý, sáu tháng, một năm ) từng cơ quan tiến hành tố tụng phải tựđánh giá, xác định số vụ trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Trong đó, phải phân tích lý do trả hồ sơ để điều tra bổ sung về chứng cứ, về tố tụng hoặc liên quan đến việc khởi tố vụ án, bị can (thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố); số vụ trả có căn cứ, số vụ trả không có căn cứ; nguyên nhân và trách nhiệm của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án và những người tiến hành tố tụng trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
3. Cách tính tỷ lệ trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Viện kiểm sát, Toà án như sau:
a) Tỷ lệ trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Viện kiểm sát bằng số vụ án hình sự do Viện kiểm sát đã quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung có căn cứ trên tổng số vụ Cơ quan điều tra đã có kết luận điều tra chuyển hồ sơ đến Viện kiểm sát đề nghị truy tố (bao gồm cả số vụ kết thúc điều tra cũ chưa giải quyết và số vụ mới).
Ví dụ: Năm 2009 Viện kiểm sát tỉnh H đã có quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung 9 vụđược Cơ quan điều tra chấp nhận trong tổng số 150 vụ (cũ 10 vụ, mới 140 vụ) mà Cơ quan điều tra đã có kết luận điều tra chuyển hồ sơđề nghị Viện kiểm sát truy tố, thì tỷ lệ trả hồ sơđiều tra bổ sung của Viện kiểm sát đối với Cơ quan điều tra là 6% (9 vụ: 150 vụ x 100%).
b) Tỷ lệ trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Toà án bằng số vụ án hình sự do Toà án đã quyết định trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung có căn cứ trên tổng số vụ Viện kiểm sát đã truy tố và chuyển hồ sơ đến Toà án để xét xử (bao gồm cả số vụ truy tố cũ chưa giải quyết và số vụ truy tố mới).
Ví dụ: Năm 2009 Toà án đã có quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung 5 vụ được Viện kiểm sát chấp nhận trong tổng số 100 vụ (cũ 10 vụ mới 90 vụ) mà Viện kiểm sát nhân dân đã truy tố và chuyển hồ sơ đến Toà án để xét xử, thì tỷ lệ trả hồ sơ điều tra bổ sung của Toà án đối với Viện kiểm sát là 5% (5 vụ: 100 vụ x 100%).
c) Đối với trường hợp cùng một vụ án nhưng Viện kiểm sát, Toà án trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhiều lần, thì tính là 01 vụ và phân tích là trả nhiều lần.
d) Đối với những vụ án do Toà án trả hồ sơ điều tra bổ sung, sau đó Viện kiểm sát lại trả hồ sơ yêu cầu Cơ quan điều tra bổ sung theo yêu cầu của Toà án, thì tính là 01 vụ và phân tích là trả 01 lần (vụ án được tính do Toà án trả hồ sơ để điều tra bổ sung).
Điều 11. Xác định trách nhiệm trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung
1. Cơ quan điều tra, Điều tra viên có trách nhiệm trong những trường hợp sau đây:
a) Không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, kịp thời yêu cầu điều tra hoặc quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Viện kiểm sát dẫn đến vụ án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung đối với những vấn đề mà Viện kiểm sát đã yêu cầu điều tra.
b) Không cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ, tài liệu liên quan trong quá trình điều tra vụ án làm cho Kiểm sát viên không nắm được nội dung vụ án để kịp thời đề ra yêu cầu điều tra dẫn đến Viện kiểm sát hoặc Toà án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung đối với vụ án.
2. Viện kiểm sát, Kiểm sát viên có trách nhiệm trong những trường hợp hợp sau đây:
a) Không đề ra yêu cầu điều tra hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung đối với những vấn đề có thể phát hiện được dẫn đến sau đó vụ án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
b) Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung không có căn cứ pháp luật và Cơ quan điều tra có văn bản giữ nguyên kết luận điều tra, sau đó Viện kiểm sát quyết định truy tố như đề nghị của Cơ quan điều tra.
3. Toà án, Thẩm phán chủ toạ phiên toà có trách nhiệm đối với trường hợp quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung không có căn cứ pháp luật và Viện kiểm sát có văn bản giữ nguyên quyết định truy tố, sau đó Toà án xét xử vụ án nhưđề nghị của Viện kiểm sát.
4. Căn cứ hướng dẫn tại khoản 1, 2, 3 Điều này, Lãnh đạo các cơ quan tiến hành tố tụng tổ chức kiểm điểm, xác định trách nhiệm cụ thể của từng người tiến hành tố tụng ở mỗi cấp có liên quan đến việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung để xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật và có biện pháp khắc phục.
Điều 12. Điều khoản thi hành
Thông tư này có hiệu lực sau 45 ngày kể từ ngày ký. Những hướng dẫn trước đây của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Toà án nhân dân tối cao trái với những hướng dẫn tại Thông tư này đều bãi bỏ.
Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc cần hướng dẫn thì từng ngành ởđịa phương phản ánh cho cơ quan cấp trên là Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao để thống nhất có hướng dẫn bổ sung kịp thời./.
KT. CHÁNH ÁN KT.BỘ TRƯỞNG KT. VIỆN TRƯỞNG
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO BỘ CÔNG AN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂ N TỐI CAO
PHÓ CHÁNH ÁN THƯỜNG TRỰC THỨ TRƯỞNG PHÓ VIỆN TRƯỞNG
Đặng Quang Phương Thượng tướng Lê Thế Tiệm Hoàng Nghĩa Mai