Vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất”: Trước Tòa, Nguyên đơn, bà Lê Thị Thái (trú tại thôn Mỏ Nhài, xã Hưng Vũ, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn) trình bày: Khu đất tranh chấp trước năm 1986 chưa có ai quản lý, canh tác nên gia đình bà đã thuê máy san ủi và làm nhà ở từ đó đến năm 2000 thì chuyển ra phố Mỏ Nhài, nhưng hàng năm vẫn vào canh tác...
Viện kiểm sát tỉnh Lạng Sơn rút kinh nghiệm công tác kiểm sát các vụ án dân sự bị hủy
Vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất”: Trước Tòa, Nguyên đơn, bà Lê Thị Thái (trú tại thôn Mỏ Nhài, xã Hưng Vũ, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn) trình bày: Khu đất tranh chấp trước năm 1986 chưa có ai quản lý, canh tác nên gia đình bà đã thuê máy san ủi và làm nhà ở từ đó đến năm 2000 thì chuyển ra phố Mỏ Nhài, nhưng hàng năm vẫn vào canh tác. Năm 2010, khi các cơ quan chức năng tiến hành giải phóng mặt bằng để làm đường 243 thì anh Thắng đến tranh chấp. Nay bà yêu cầu được quản lý, sử dụng diện tích đất tranh chấp, sở hữu các cây có trên đất và yêu cầu anh Thắng bồi thường thiệt hại 500 cây keo, 100 cây bạch đàn với số tiền 10.000.000 đồng do anh Thắng đã chặt của bà.
Lãnh đạo, KSV Phòng 5 VKSND tỉnh Lạng Sơn họp bàn nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác Kiểm sát xét xử án dân sự
Bị đơn, anh Hoàng Văn Thắng (trú thôn Làng Huyền, xã Trấn Yên, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn) cho rằng: Nguồn gốc đất tranh chấp là do gia đình anh khai phá từ năm 1979 để trồng ngô, khoai, sắn. Xung quanh khu đất có các bụi tre do bà Thái trồng. Năm 1994 anh được nhà nước cấp sổ bìa xanh, bố anh là người kê khai xin cấp, mảnh đất tranh chấp thuộc lô số 01 diện tích 0,15ha. Từ khi được cấp sổ gia đình anh đã quản lý sử dụng và trồng một số bụi tre gai, hồi. Nay bà Thái yêu cầu được sử dụng khu đất tranh chấp và yêu cầu bồi thường số cây đã chặt anh không nhất trí.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ủy ban nhân dân huyện Bắc Sơn trình bày: Thửa đất tranh chấp gia đình bà Thái đã quản lý, sử dụng liên tục từ năm 1986 đến nay. Tại cơ quan quản lý hồ sơ của hạt Kiểm lâm huyện Bắc Sơn diện tích đất tranh chấp có mã số 89 không có hồ sơ gốc, chưa đăng ký tại sổ lâm bạ, chưa cấp cho ai. Hồ sơ giao đất giao rừng cho anh Thắng thuộc lô số 01 không liên quan đến đất tranh chấp.
Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2012/DS-ST ngày 21/12/2012 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Sơn, xử: “Tạm giao diện tích 1.351m2 đất lâm nghiệp tại lô 89 bản đồ quy hoạch thôn Làng Huyền, xã Trấn Yên, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Trên đất có 52 cây tre già, 43 cây mỡ gà, 05 cây hồi, 07 cây xoan, 145 cây bạch đàn, 05 cây hang (Tổng giá trị đất và tài sản trên đất là 49.334.000đ) cho gia đình bà Lê Thị Thái quản lý sử dụng.
Ông Hoàng Văn Thắng phải trả lại cho bà Lê Thị Thái số tiền chi phí định giá tài sản là 500.000đ”. Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo và yêu cầu thi hành án của các đương sự.Nhận được bản án, anh Hoàng Văn Thắng kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu được quản lý, sử dụng diện tích đất tranh chấp.
Kiểm sát viên Phòng 5 VKSND tỉnh Lạng Sơn tham gia phiên xét xử án dân sự
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm: quá trình giải quyết vụ án Tòa án sơ thẩm đã có một số vi phạm sau:
- Chưa xem xét giải quyết hết yêu cầu của đương sự: Tại tòa tranh chấp, sở hữu cây trên đất và đòi bồi thường thiệt hại về tài sản đối với những cây bị chặt. Anh Thắng cũng yêu cầu được sử dụng đất, cây trên đất và không nhất trí bồi thường thiệt hại về tài sản. Tại phiên hòa giải và tại phiên tòa sơ thẩm bà Thái chỉ đồng ý rút yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản nếu anh Thắng không tranh chấp đất với bà nữa. Như vậy cả bà Thái và anh Thắng đều yêu cầu được quản lý sử dụng tài sản là cây trên đất và yêu cầu bồi thường thiệt hại nhưng Tòa án sơ thẩm chỉ xem xét giải quyết về quyền sử dụng đất mà chưa xem xét giải quyết đến tài sản trên đất và yêu cầu bồi thường thiệt hại của bà Thái là chưa giải quyết hết yêu cầu của đương sự, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bà Thái.
- Không đưa đầy đủ người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng trong vụ án: Quá trình giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm ông Hoàng Văn Phù (bố anh Thắng) cho rằng khu đất tranh chấp là của ông, năm 1986 cho vợ chồng bà Thái mượn sử dụng, trên đất có 05 cây hồi, 05 bụi tre do ông trồng đó được 20 năm; Anh Thắng khẳng định khu đất tranh chấp là lô số 01, Ủy ban nhân dân huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn cấp cho gia đình anh, do anh là chủ hộ; Ông Dương Văn Lớp (chồng bà Thái) có đơn trình bày về nguồn gốc đất tranh chấp và yêu cầu giải quyết quyền lợi cho mình, tại phiên tòa phúc thẩm ông Lớp có mặt và tiếp tục khẳng định yêu cầu của mình nhưng khi giải quyết vụ án Tòa án cấp sơ thẩm không đưa ông Phù, các thành viên của hộ gia đình anh Thắng và ông Lớp vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
- Vi phạm trong việc thu thập chứng cứ: Theo kết quả xác minh tại phòng Tài nguyên - Môi trường huyện Bắc Sơn ngày 07/12/2012 kết luận: ông Hoàng Văn Thắng không được giao quyền quản lý, sử dụng rừng và đất trồng rừng tại lô 89 hiện đang tranh chấp, nhưng tại biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 22/11/2012 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Sơn lại khẳng định thửa đất tranh chấp qua xác minh là thửa số hiệu 89 (lô 1), Ủy ban nhân dân huyện Bắc Sơn đã giao cho ông Thắng. Như vậy, theo kết quả xem xét thẩm định thì lô đất tranh chấp là lô số 01 (thửa đất số hiệu 89), còn kết quả xác minh tại hạt Kiểm lâm huyện Bắc Sơn thì lại xác định là lô 89. Giữa hai kết quả còn có sự mâu thuẫn, chưa được làm rõ.
Hơn nữa hiện nay trên khu đất tranh chấp còn có các cây trên đất, cả bà Thái và anh Thắng nhận được trồng, nhưng các đương sự trình bày về năm trồng có khác nhau, bà Thái khai trồng năm 1998, anh Thắng khai trồng năm 1995, 1996. Việc xác định tuổi cây là cần thiết, Tòa án sơ thẩm chưa tiến hành thu thập thêm chứng cứ và giám định tuổi cây là thiếu sót. Đồng thời tại phiên tòa phúc thẩm anh Thắng còn cho rằng phạm vi đất tranh chấp không đúng như biên bản thẩm định tại chỗ của Tòa án nhân dân huyện Bắc Sơn, cụ thể là những cây tre không nằm trong diện tích đất tranh chấp, nhưng chưa được làm rõ.
Với những vi phạm nêu trên bản án phúc thẩm số 29/2013/DS- PT ngày 03/5/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã xét xử và tuyên Hủy bản án sơ thẩm số 05/2012/DS-ST ngày 21/12/2012 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Sơn và giao cho cấp sơ thẩm điều tra, xét xử lại theo thủ tục chung.
. Vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất và đòi bồi thường thiệt hại về tài sản”:
Nội dung vụ án:Nguyên đơn ông Lành Văn Viết (thôn Nà Lái, xã Hiệp Hạ, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn) cho rằng: đất tranh chấp gồm các thửa 204, 205, 206, 207, 208, 209 thuộc tờ bản đồ địa chính số 04, ở Nà Mòn, xã Hiệp Hạ, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn. Nguồn gốc là của bố ông Phương bán cho bố ông Đềnh. Sau đó ông Đềnh đưa vào Hợp tác xã để sử dụng chung. Khi hợp tác xã tan, gia đình ông được chính quyền địa phương giao quyền quản lý, sử dụng và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1995. Năm 1996 ông Đềnh sang hỏi mượn đất để canh tác, ông đã cho ông Đềnh mượn thửa 205 với thời hạn 02 năm. Cuối năm 1998 ông thấy ông Giáo cày thửa 205 và các thửa còn lại của ông nên ông đã yêu cầu ông Giáo không được làm từ đó xảy ra tranh chấp. Nay ông yêu cầu tiếp tục quản lý, sử dụng diện tích đất tranh chấp, yêu cầu ông Giáo bồi thường thiệt hại cho ông do quá trình tranh chấp ông không được canh tác và thu hồi hoa lợi.
Bị đơn ông Vi Văn Giáo (bản Đoóc, xã Hiệp Hạ, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn) không chấp nhận yêu cầu của ông Viết với lý do ông đã mua số ruộng này với ông Lương Văn Phương 20 triệu đồng từ năm 1998. Ông có yêu cầu phản tố đòi ông Viết phải bồi thường công tôn tạo và tăng độ màu của đất với số tiền 76 triệu đồng, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Viết.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Ngô Văn Đềnh và ông Lương Văn Phương công nhận nội dung sự việc như ông Viết trình bày, các ông đề nghị Tòa án giải quyết cho ông Giáo được tiếp tục quản lý, sử dụng khu đất tranh chấp. Bản án dân sự sơ thẩm số 13/2012/DS-ST ngày 25/9/2012 của Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình, xử:
“Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lành Văn Viết vì có căn cứ pháp luật. Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Ngô Văn Đềnh với ông Lương Văn Phương ngày 29/02/1998 (âm lịch) và giữa ông Phương với ông Vi Văn Giáo ngày 28/11/1998 (âm lịch) đều vô hiệu.
Giao cho ông Lành Văn Viết được quản lý, sử dụng 2.942m2 đất ruộng tại xứ đồng Nà Mũn, thôn Nà Lỏi gồm các thửa 204, 205, 206, 207, 208, 209 thuộc tờ bản đồ địa chính xã Hiệp Hạ, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn. Bác yêu cầu đòi được quyền quản lý, sử dụng diện tích đất trên và một phần yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Ủy ban nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn cấp cho ông Viết ngày 06/11/1995 của bị đơn ông Vi Văn Giáo vì không có căn cứ pháp luật.
Ngoài ra bản án còn tuyên về bồi thường thiệt hại, án phí, chi phí định giá, quyền kháng cáo và yêu cầu thi hành án của các đương sự. Trong hạn luật định nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Bản án phúc thẩm số 33/2013/DS- PT ngày 21/5/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã xử sửa và hủy một phần bản án sơ thẩm số13/2012/DS-ST ngày 25/9/2012 của Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm:
Quá trình giải quyết vụ án thấy rằng Tòa án sơ thẩm căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được Ủy ban nhân dân huyện Lộc Bình cấp cho ông Viết và xử giao diện tích đất tranh chấp cho ông Viết quản lý, sử dụng là có căn cứ. Tuy nhiên bản án sơ thẩm giao toàn bộ diện tích đất tranh chấp 2.942m2 cho ông Viết, trong đó có cả phần diện tích đất 399m2 dư ra từ việc ông Giáo cải tạo, san lấp các thửa 206, 207, 208, 209 là chưa đảm bảo tính pháp lý, vì diện tích đất 399m2 chưa có trong sổ đỏ của ông Viết nên chỉ được tạm giao cho ông Viết quản lý sử dụng.
Đồng thời đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại bản án sơ thẩm buộc Giáo phải bồi thường cho ông Viết số tiền 45.304.000đồng do ông Viết không được canh tác và thu hái hoa lợi trên diện tích đất tranh chấp từ năm 1999 đến năm 2006 (08 năm) là không chính xác, vì căn cứ theo hướng dẫn tại điểm b, điều 6 Nghị quyết số 03/NQ- HĐTPTANDTC ngày 08/7/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005 thì thời hiệu yêu cầu bồi thường thiệt hại là 02 năm bắt đầu từ ngày 01/01/2005 đến ngày 01/01/2007, nhưng do đơn yêu cầu của ông Viết đề ngày 17/8/2007 nên yêu cầu bồi thường thiệt hại của ông Viết đã hết thời hiệu khởi kiện.
Vụ án “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”: Nguyên đơn bà Cao Thị Sửu (Số 9, ngách 53, Cẩm Văn, Tôn Đức Thắng, phường Hàng Bột, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội ) trình bày: Ngày 02/6/2007 bà cho bà Hoa vay số tiền 400.000.000đ có làm giấy tờ viết tay, thời hạn vay là 02 tháng kể từ ngày 02/6/2007 đến ngày 02/8/2007 và thỏa thuận miệng lãi suất là 2,1% một tháng trên tổng số tiền vay. Ngày 08/9/2007 bà Hoa đã trả tiền lãi của hai tháng số tiền là 16.800.000đ.
Ngày 13/7/2007 bà Vũ Thị Hoa cùng bà Ngô Thị Tuyết Mai tiếp tục đặt vấn đề vay tiền, bà đã cho bà Hoa, bà Mai vay tổng số tiền là 5.762.320.000đ với lãi suất thỏa thuận là 3% một tháng trên tổng số tiền vay. Bà Mai đã đặt giấy tờ nhà số 1097, đường Hồng Hà, phương Chương Dương, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội mang tên Ngô Thị Tuyết Mai; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AI496043 mang tên Ngô Thị tuyết Mai và Nguyễn Đỗ Huyền ( Huyền là chồng của bà Mai); Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AE889308 mang tên Vũ Thị Hoa cho bà để đảm bảo khoản vay chung của bà Hoa và bà Mai.
Nay bà yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Vũ Thị Hoa và bà Ngô Thị Tuyết Mai phải trả cho bà số tiền gốc đã vay chung là 5.762.320.000đ. Tiền lãi suất theo thỏa thuận trong hạn là 04 tháng, tiền lãi suất nợ quá hạn tính từ ngày 18/8/2007 đến ngày xét xử sơ thẩm 29/8/2012. Bà Hoa phải trả nợ riêng là 340.000.000đ tính lói từ ngày 25/9/2009 đến ngày xét xử sơ thẩm 29/8/2012.
Đối với bị đơn bà Vũ Thị Hoa (Số 24, Khối 11, đường Minh Khai, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn) và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Ngô Thị Tuyết Mai quá trình giải quyết ở cấp sơ thẩm Tòa án đã triệu tập nhiều lần nhưng các bà đều vắng mặt không có lý do. Tòa án đã tiến hành các thủ tục tống đạt, ủy thác lấy lời khai, niêm yết văn bản tố tụng và đưa vụ án ra xét xử.
Bản án dân sự sơ thẩm số 08/2012/DS-ST ngày 29/8/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, xử: “Buộc bà Vũ Thị Hoa phải trả cho bà Cao Thị Sửu số tiền gốc và lãi là 508.710.000đ.
Buộc bà Vũ Thị Hoa và bà Ngô Thị Tuyết Mai phải có trách nhiệm liên đới trả cho bà Cao Thị Sửu số tiền gốc và lãi là 8.669.410.000đ (Tám tỷ, sáu trăm sáu mươi chín triệu, bốn trăm mười nghìn đồng). Cụ thể theo phần: Bà Vũ Thị Hoa phải trả cho bà Cao Thị Sửu tổng số tiền gốc + lãi là 4.334.705.200đ (Bốn tỷ, ba trăm ba mươi bốn triệu, bẩy trăm linh năm nghìn hai trăm đồng). Bà Ngô Thị Tuyết Mai phải trả cho bà Cao Thị Sửu tổng số tiền gốc + lãi là 4.334.705.200đ (Bốn tỷ, ba trăm ba mươi bốn triệu, bẩy trăm linh năm nghìn hai trăm đồng). Ngoài ra bản án còn tuyên về nghĩa vụ chậm trả, án phí, quyền kháng cáo và yêu cầu thi hành án của các đương sự.Ngày 22, 25/10/2012 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Ngô Thị Tuyết Mai và bị đơn bà Vũ Thị Hoa có đơn kháng cáo quá hạn, nội dung kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã chấp nhận kháng cáo quá hạn của bà Mai, bà Hoa.
Tại bản án phúc thẩm số 35/2013/DS- PT ngày 06/6/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã xử hủy toàn bộ bản án sơ thẩm số số 08/2012/DS-ST ngày 29/8/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, giao cho cấp sơ thẩm xét xử lại theo thủ tục chung.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm:
Quá trình giải quyết vụ án Tòa án sơ thẩm đã tiến hành tống đạt, niêm yết các văn bản tố tụng để triệu tập bà Hoa và bà Mai, nhưng do việc tống đạt, niêm yết không đúng địa chỉ các đương sự cung cấp nên trong quá trình giải quyết vụ án bà Hoa, bà Mai không đến phiên tòa, Tàa án sơ thẩm vẫn đưa vụ án ra xét xử là chưa đảm bảo, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bà Hoa và bà Mai, cụ thể:
- Đối với bà Vũ Thị Hoa: Nguyên đơn bà Sửu cung cấp địa chỉ của bà Hoa tại số nhà 3, ngừ 92, phố Cửa Bắc, phường Quán Thánh, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội; Công an phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Lạng Sơn xác nhận bà Hoa hiện tạm trú tại số nhà 24 đường Minh Khai, Hoàng văn Thụ, thành phố Lạng Sơn, nhưng khi tống đạt các văn bản tố tụng Tòa án sơ thẩm chỉ tống đạt theo địa chỉ của bà Hoa tại số nhà 24, đường Minh Khai, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Lạng Sơn mà không tống đạt theo địa chỉ do nguyên đơn cung cấp là không đúng quy định.
Đồng thời khi Tòa án sơ thẩm tống đạt các văn bản tố tụng cho bà Hoa tại địa chỉ nhà số 24, đường Minh Khai, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Lạng Sơn, con dâu chị Hoa là Lưu Thị Cúc nhận thay nhưng Tòa án sơ thẩm không yêu cầu chị Cúc cam kết giao lại giấy tờ cho bà Hoa là vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 152 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Ngô Thị Tuyết Mai: Nguyên đơn cung cấp địa chỉ là nhà số 1+ 3A5, Yên Bái 1, phường Phố Huế, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội; Số 9+ 10D2, Nguyễn Công Trứ, phường Phố Huế, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội nhưng Tòa án sơ thẩm chỉ tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng tại địa chỉ số 1097 đường Hồng Hà, phường Chương Dương, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội là địa chỉ nơi đặt công ty là chưa đảm bảo. Hơn nữa việc cấp, tống đạt các văn bản tố tụng có hợp lệ hay không cũng chưa có tài liệu nào chứng minh.
Mặt khác, Công an phường Chương Dương đã có công văn trả lời bà Mai hiện đang ở tại địa chỉ: 3A5, Yên Bái I, phường Phố Huế, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội; Địa chỉ số 1097 đường Hồng Hà, phường Chương Dương, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội là địa chỉ bà Mai kinh doanh cho thuê lưu trú, mở khách sạn, bà Mai không ăn, ở tại khách sạn. Nhưng khi thông báo phiên hòa giải lần 2 vào ngày 01/8/2012 và tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử ngày 02/8/2012 Tòa án sơ thẩm không thông báo và triệu tập người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan theo địa chỉ Công an phường Chương Dương cung cấp, mà vẫn tống đạt, thông báo và niêm yết theo địa chỉ số 1097 đường Hồng Hà, phường Chương Dương, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Quá trình giải quyết ở cấp phúc thẩm Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã xác minh tại Công an phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Lạng Sơn được biết bà Hoa chỉ ở số nhà 24, đường Minh Khai, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Lạng Sơn từ khoảng tháng 6/2011 đến tháng 5/2012 bà Hoa đi đâu, làm gì Công an phường không rõ và trong thời gian ở số nhà 24, đường Minh Khai, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Lạng Sơn bà Hoa không thực hiện việc đăng ký tạm trú với công an phường. Kết quả xác minh cho thấy hiện nay bị đơn không cư trú trên địa bàn thành phố Lạng Sơn do đó việc Tòa án thụ lý giải quyết vụ án là không đúng quy định của pháp luật.
Vấn đề đặt ra là, được phân công kiểm sát giải quyết vụ án, nhưng suốt quá trình nghiên cứu hồ sơ và tham gia phiên tòa, Kiểm sát viên không phát hiện được vi phạm của Tòa án trong quá trình điều tra, xác minh, thu thập và đánh giá tài liệu, chứng cứ cùng với việc áp dụng pháp luật trong xét xử của Tòa án; không đề xuất với lãnh đạo việc kháng nghị đối với các bản án dân sự trên đây là một điều đáng tiếc, do các Kiểm sát viên này không nắm chắc các căn cứ pháp luật về dân sự và các nguyên tắc và nội dung Bộ luật tố tụng dân sự; cần nghiêm túc rút kinh nghiệm sâu sắc, để nâng cao chất lượng công tác kiểm sát xét xử án dân sự tại Lạng Sơn.
Thái Hưng