( Kiểm sát Online) -Thực hiện các nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, từ Nghị quyết Trung ương 8 khoá VII, Nghị quyết Trung ương 3, Nghị quyết Trung ương 7 khoá VIII và Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, nhất là Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị...
Sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
TS. ĐỖ VĂN ĐƯƠNG
( Kiểm sát Online) -Thực hiện các nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, từ Nghị quyết Trung ương 8 khoá VII, Nghị quyết Trung ương 3, Nghị quyết Trung ương 7 khoá VIII và Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, nhất là Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”; Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 được ban hành đã góp phần đáng kể trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác điều tra, bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử, thi hành án và các hoạt động bổ trợ tư pháp, tôn trọng quyền dân chủ, quyền con người và bảo đảm công bằng xã hội. Khắc phục một bước quan trọng việc lạm dụng bắt khẩn cấp, hình sự hoá các quan hệ kinh tế, dân sự và bắt oan, sai; tỷ lệ bắt, giam, giữ đưa ra truy tố đạt kết quả cao; công tác xét xử được xem xét thận trọng, đúng pháp luật và tình trạng tồn đọng án phúc thẩm đã cơ bản được khắc phục. Công tác giải quyết án trọng điểm và đấu tranh chống tội phạm đã được đẩy nhanh tiến độ và đạt kết quả tốt…
Hội thảo khoa học về Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam
Tuy nhiên, quá trình thi hành Bộ luật cho thấy về cơ bản hoạt động tố tụng điều tra, truy tố, xét xử hiện nay còn theo nếp cũ, nhiều thủ tục còn rườm rà, phức tạp chưa kịp thời đổi mới tư duy để thuận lợi cho việc áp dụng, quá trình tố tụng diễn ra còn chậm chạp, kéo dài và chưa tiết kiệm về thời gian và nhân lực, vật lực. Vì vậy, để góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu cải cách tư pháp được ghi trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị là xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý… thì việc khẩn trương triển khai nghiên cứu sửa đổi Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư pháp thời gian tới là cấp thiết. Việc sửa đổi toàn diện Bộ luật Tố tụng Hình sự lần này phải quán triệt các quan điểm cơ bản sau đây:
Một là, quán triệt các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, nhất là Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị, tiếp tục sửa đổi Bộ luật theo mô hình tố tụng hình sự mà nền tảng là thẩm vấn, tăng cường hơn nữa các yếu tố tranh tụng theo hướng phân định rạch ròi giữa chức năng buộc tội, chức năng gỡ tội và chức năng xét xử để xác định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của mỗi cơ quan trong quá trình tố tụng hình sự; đề cao tính độc lập của các chức danh tư pháp để họ chủ động và nâng cao trách nhiệm khi thực hiện các hành vi, quyết định tố tụng; nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà xét xử các vụ án hình sự.
Hai là, việc sửa đổi Bộ luật phải tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc, phức tạp nhất của tố tụng hình sự trên nền tảng của cải cách tư pháp với những nội dung cụ thể như đã được nêu trong Nghị quyết số 49 trong điều kiện cải cách mạnh mẽ thể chế hành chính, chế độ quản lý kinh tế, xã hội, cùng với việc không ngừng nâng cao trình độ dân trí, văn hoá, ý thức pháp luật của công dân. Bộ luật mới phải thể hiện cao độ tinh thần chủ động đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm nhanh chóng, kịp thời và bảo vệ có hiệu quả quyền tự do, dân chủ, quyền con người trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và hội nhập quốc tế. Đồng thời, việc sửa đổi Bộ luật phải gắn liền với những thay đổi các chế định về tội phạm và hình phạt trong Bộ luật Hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp, bảo đảm đường lối điều tra, truy tố và xét xử tập trung đấu tranh với các loại tội phạm nghiêm trọng, phức tạp; hạn chế việc tạm giam, đề cao tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong việc xử lý người phạm tội và phòng ngừa tội phạm.
Ba là, sửa đổi một cách toàn diện các trình tự, thủ tục tố tụng, bảo đảm tính công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận tiện để người dân dễ tiếp cận công lý, bên tiến hành và tham gia hoạt động tố tụng thực sự dân chủ, bình đẳng; khắc phục các thủ tục tố tụng còn rườm rà, phức tạp để thuận lợi cho việc áp dụng và đẩy nhanh quá trình tố tụng nhằm tiết kiệm thời gian và nhân lực, vật lực trong điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự; bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân; coi trọng việc phòng ngừa tội phạm và không để xảy ra các trường hợp oan, sai.
Bốn là, việc sửa đổi Bộ luật được tiến hành trên sở tổng kết những vướng mắc trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự; có kế thừa truyền thống pháp lý và tham khảo kinh nghiệm pháp luật tố tụng tiên tiến của các nước; gắn với việc đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng độc lập trên cơ sở đề cao pháp luật và thực hiện đầy đủ nguyên tắc giám sát, cân bằng quyền lực nhằm chống lạm quyền, đồng thời phát huy cao độ tính chủ động của mỗi cơ quan tố tụng; bảo đảm hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án vận hành trôi chảy.
Hội thảo "Hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp"
Các nội dung cần tập trung để sửa đổi trong Bộ luật lần này là:
1. Sửa đổi các nguyên tắc trong tố tụng hình sự thể hiện sâu sắc tinh thần cải cách tư pháp là đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả, đề cao quyền tự do, dân chủ và quyền con người, làm cơ sở cho việc xây dựng các chế định, quy định cụ thể về thẩm quyền, thời hạn, thủ tục tố tụng điều tra, truy tố, xét xử. Các nguyên tắc cần được sửa đổi, bổ sung trước hết là: Nguyên tắc tranh tụng tại phiên toà, nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc truy tố (truy tố theo luật hay truy tố có chọn lọc), nguyên tắc xét xử (tập thể thì quyết định theo đa số nhưng bên đa số phải có Thẩm phán; xét xử theo chế độ một Thẩm phán áp dụng cho thủ tục rút gọn, bút lục).
2. Hoàn thiện hệ thống Cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối chỉ huy không đồng nhất với việc tổ chức các đơn vị điều tra chuyên trách đối với mỗi nhóm tội phạm trong từng hệ thống Cơ quan điều tra như hiện nay và càng chuyên sâu hơn nữa trong thời gian tới nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu đấu tranh chống tội phạm trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, tăng cường hội nhập quốc tế của đất nước (có thể thành lập thêm đơn vị chuyên trách điều tra các tội phạm về môi trường, các tội phạm công nghệ cao, các tội phạm xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, làm hàng giả, ăn cắp bản quyền). Vì vậy, tiếp tục không phân định thành cơ quan Cảnh sát điều tra và An ninh điều tra mà chỉ quy định như Bộ luật hiện hành gồm có Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân, Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân, Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát, nhưng phải phân cấp điều tra cụ thể hơn nữa cho Cơ quan điều tra các địa phương để bảo đảm tính đồng bộ trong điều tra, truy tố, xét xử nhằm đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án. Cơ quan điều tra cấp Bộ chỉ trực tiếp điều tra những loại án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp liên quan đến các quan chức cao cấp nhiều bộ, ngành, liên quan đến nhiều địa phương. Đồng thời, sửa đổi các thủ tục tố tụng điều tra thu thập tài liệu chứng cứ, kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động trinh sát với hoạt động điều tra (thủ tục về thu thập tài liệu, chứng cứ trước khi khởi tố, bắt giữ; các thủ tục tiến hành các hoạt động điều tra; việc chuyển hoá các tài liệu trinh sát thành chứng cứ tố tụng; việc truy nã người phạm tội, truy tìm tài sản, tung tích nạn nhân...), đáp ứng yêu cầu chống bỏ lọt tội phạm và người phạm tội.
3. Hoàn thiện chế định các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo hướng mở rộng diện các cơ quan này, như ngoài cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, Biên phòng, Cảnh sát biển, các cơ quan khác trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân thì có thể cho cơ quan Thuế vụ, Quản lý thị trường cũng có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra tố tụng, nhưng cần thu hẹp thẩm quyền của các cơ quan này theo tinh thần cải cách tư pháp là chỉ tiến hành một số hoạt động điều tra ban đầu sau đó chuyển hồ sơ cho Cơ quan điều tra chuyên trách tiếp tục điều tra để thực hiện chủ trương thu gọn đầu mối Cơ quan điều tra nhưng không bó tay các lực lượng chủ động phát hiện, đấu tranh chống tội phạm.
4. Đổi mới căn bản chức năng công tố nhằm thực hiện đúng chủ trương cải cách tư pháp đã được ghi trong các nghị quyết của Đảng là: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra”. Công tố gắn kết, chỉ đạo hoạt động điều tra chính là để thực hiện tốt việc truy tố tội phạm, tranh tụng có chất lượng tại các phiên toà xét xử vụ án hình sự, nhằm tăng cường chống bỏ lọt tội phạm và hạn chế các trường hợp xảy ra oan, sai. Theo đó, Viện kiểm sát phải quyết định việc phân loại xử lý các tin báo, tố giác về tội phạm, trực tiếp ra các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can; trực tiếp điều tra bất kỳ vụ án nào khi cần thiết; ra lệnh bắt, giam giữ thay cho việc phê chuẩn các quyết định đó của Cơ quan điều tra như hiện nay; Kiểm sát viên chỉ đạo việc điều tra và quyết định kết thúc việc điều tra. Mệnh lệnh của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra có giá trị bắt buộc đối với Điều tra viên, nếu không đồng ý thì vẫn phải chấp hành nhưng có quyền kiến nghị Viện trưởng Viện kiểm sát xem xét. Do đó, cần có những chế định, quy định bảo đảm vừa nâng cao tính chủ động của Điều tra viên vừa tạo cơ chế ràng buộc Điều tra viên thực hiện nghiêm chỉnh các yêu cầu tố tụng điều tra của Kiểm sát viên, và ngay từ bây giờ phải chuẩn bị mọi điều kiện để Công tố viên đủ khả năng thực hiện nhiệm vụ công tố như thế vào những năm sau 2010.
Đổi mới việc thực hành quyền công tố tại các phiên toà xét xử theo hướng nâng cao tính độc lập, chủ động và trách nhiệm của Kiểm sát viên trong luận tội, tranh tụng với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà; trong việc phát hiện những bản án, quyết định của Toà án có sai lầm để kịp thời báo cáo người có thẩm quyền kháng nghị để Toà án cấp trên xem xét lại vụ án.
5. Đổi mới các quy định về thẩm quyền của Toà án trước, trong và sau khi xét xử; đồng thời xác định hợp lý thẩm quyền xét xử của Toà án các cấp theo tinh thần cải cách tư pháp như: Thẩm quyền của Toà án sơ thẩm khu vực, của Toà phúc thẩm chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; xem xét lại thẩm quyền giám đốc thẩm và thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm, kể cả việc xây dựng và phát triển án lệ. Đồng thời, đổi mới thủ tục phiên toà xét xử sơ thẩm, phúc thẩm theo hướng xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng; bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử.
6. Hoàn thiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự theo hướng mở rộng diện người bào chữa (bất kỳ ai được người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhờ đều được tham gia bào chữa) và có cơ chế bảo đảm cho những người này thực hiện đầy đủ quyền bào chữa của mình theo quy định của pháp luật. Tạo điều kiện cho người bào chữa thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên toà, thì cần quy định rõ các quyền và biện pháp để Luật sư, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự tiến hành tự thu thập tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa và giá trị pháp lý các tài liệu, đồ vật do họ cung cấp; các tình tiết và những lập luận của người bào chữa được xem như nguồn chứng cứ phải được các cơ quan tố tụng xem xét để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
7. Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tố tụng của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, của Chánh án, Phó Chánh án Toà án và việc tăng quyền cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán để họ chủ động và nâng cao trách nhiệm trong các hành vi, quyết định tố tụng của mình. Thủ trưởng các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ làm nhiệm vụ quản lý, điều hành tổ chức và hoạt động của cơ quan tố tụng, phân công cán bộ tiến hành tố tụng, ra một số quyết định tố tụng quan trọng. Phân định thẩm quyền giữa các loại Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán (sơ cấp, trung cấp, cấp cao mà không gọi theo cấp hành chính như hiện nay) để ở mỗi cấp tố tụng có nhiều loại Điều tra viên, Công tố viên, Thẩm phán thích ứng với từng loại công việc, chỉ có Điều tra viên cao cấp, Kiểm sát viên và Thẩm phán cao cấp được tiến hành và ra tất cả các quyết định tố tụng về vụ án.
8. Sửa đổi các quy định về các biện pháp ngăn chặn theo hướng: Xác định rõ căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giam không thuần tuý chỉ là sự phân loại tội phạm mà còn phải coi trọng các yếu tố về nhân thân người phạm tội, chính sách hình sự và yêu cầu điều tra, truy tố, xét xử (hiện nay các đối tượng lang thang, không nơi cư trú, người chưa thành niên phạm tội, phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi do không bắt giam đã gây nhiều khó khăn cho việc giải quyết vụ án); hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tiền là chủ yếu, các tội phạm do vô ý và một số tội phạm khác không cần thiết phải tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác thì hiệu quả hơn; thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng các biện pháp tạm giam. Mở rộng việc áp dụng các biệnpháp ngăn chặn khác như bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm bằng việc quy định chặt chẽ những điều kiện nhằm bảo đảm hiệu lực các biện pháp ngăn chặn này trong thực tiễn, ngăn ngừa bị can, bị cáo bỏ trốn hoặc gây cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm tội. Chẳng hạn, quy định người bảo lĩnh phải đặt tiền, chứ không phải bằng tín chấp mới phát huy hiệu lực.
Hội thảo về thực tiễn thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
9. Đơn giản, minh bạch hoá các thủ tục tố tụng để thuận lợi và tiết kiệm trong áp dụng và tạo điều kiện cho người dân tiếp cận công lý; khắc phục những thủ tục rườm rà, phức tạp nhằm đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án (thủ tục ban hành, phê chuẩn, giao nhận các quyết định tố tụng còn mang tính hình thức gây tốn kém, kéo dài việc giải quyết vụ án). Quy định chặt chẽ, rõ ràng về trình tự, thủ tục, thời hạn trưng cầu và thực hiện giám định; xác định rõ cơ chế đánh giá kết luận giám định, bảo đảm đúng đắn, khách quan để làm căn cứ giải quyết vụ việc. Hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng quy định chặt chẽ những căn cứ kháng nghị và quy định rõ trách nhiệm của người ra kháng nghị đối với bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, nhằm tăng cường phát hiện những trường hợp bỏ lọt tội phạm và việc xét xử vụ án oan, sai. Hoàn thiện thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định theo hướng mở rộng việc áp dụng thủ tục rút gọn đối với cả loại án không quả tang nhưng chứng cứ và lai lịch người phạm tội rõ ràng, xây dựng chế độ xét xử một Thẩm phán và việc xét xử phúc thẩm theo bút lục đối với một số loại án…
10. Các điều ước quốc tế và những vấn đề pháp lý đặt ra đối với việc sửa đổi Bộ luật trong điều kiện hội nhập quốc tế: Vấn đề dẫn độ tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự; uỷ thác điều tra; cơ quan quyết định việc dẫn độ tội phạm, cơ quan thực hiện việc dẫn độ; việc chuyển giao hồ sơ, vật chứng của vụ án. Cơ quan làm đầu mối về hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự… Sửa đổi một số vấn đề khác về thủ tục tố tụng thi hành án hình sự; về quyền khiếu nại, kiến nghị của các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong tố tụng hình sự./.