Do chưa có văn bản hướng dẫn về việc tịch thu hay không tịch thu số tiền đánh bạc, số tiền sẽ thu lợi từ việc đánh bạc (như tiền trúng thưởng, tiền hoa hồng) và việc xác định đối tượng phải chịu trách nhiệm nộp các khoản tiền này, nên dẫn đến có nhiều cách hiểu và vận dụng pháp luật khác nhau trong thực tiễn giải quyết các vụ án đánh bạc theo hình thức lô, đề.
Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS năm 2015) quy định Tội đánh bạc như sau: “1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”…
Hiện nay, chưa có văn bản nào hướng dẫn cách tính số tiền dùng để đánh bạc theo quy định tại Điều 321 BLHS năm 2015, do vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn áp dụng cách tính số tiền dùng để đánh bạc theo tinh thần của Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 248 và 249 BLHS năm 1999 (Nghị quyết số 01/2010). Điều 1 của Nghị quyết số 01/2010 quy định: “Việc xác định số tiền hoặc giá trị hiện vật của người chơi đề, cá độ và của chủ đề, chủ cá độ dùng đánh bạc dưới hình thức chơi số đề, cá độ bóng đá, cá độ đua ngựa,... như sau:
“5.1. Xác định số tiền hoặc giá trị hiện vật của người chơi đề, cá độ dùng đánh bạc
a) Trường hợp người chơi số đề, cá độ có trúng số đề, thắng cược cá độ thì số tiền mà họ dùng đánh bạc là tổng số tiền mà họ đã bỏ ra để mua số đề, cá độ cộng với số tiền thực tế mà họ được nhận từ chủ đề, chủ cá độ...
b) Trường hợp người chơi số đề, cá độ không trúng số đề, không thắng cược cá độ hoặc bị phát hiện, ngăn chặn trước khi có kết quả mở thưởng thì số tiền mà họ dùng đánh bạc là tổng số tiền mà họ đã bỏ ra để mua số đề, cá độ...
5.2. Xác định số tiền hoặc giá trị hiện vật của chủ đề, chủ cá độ dùng đánh bạc
a) Trường hợp có người chơi số đề, cá độ trúng số đề, thắng cược cá độ thì số tiền chủ đề, chủ cá độ dùng đánh bạc là toàn bộ số tiền thực tế mà chủ đề, chủ cá độ đã nhận của những người chơi số đề, cá độ và số tiền mà chủ đề, chủ cá độ phải bỏ ra để trả cho người trúng (có thể là một hoặc nhiều người)...
b) Trường hợp không có người chơi số đề, cá độ trúng số đề, thắng cược cá độ hoặc bị phát hiện, ngăn chặn trước khi có kết quả mở thưởng, kết quả bóng đá, kết quả đua ngựa... thì số tiền chủ đề, chủ cá độ dùng đánh bạc là tổng số tiền mà chủ đề, chủ cá độ đã nhận của những người chơi số đề, cá độ...”.
Như vậy, theo tinh thần hướng dẫn của Nghị quyết số 01/2010 thì xác định số tiền dùng vào việc đánh bạc nếu khi trúng số đề, hoặc thắng cá cược là số tiền thực tế của người chơi bỏ ra để đánh đề, cá độ và toàn bộ số tiền thực tế mà chủ đề, chủ cá độ đã nhận của những người chơi số đề, cá độ và số tiền mà chủ đề, chủ cá độ phải bỏ ra để trả cho người trúng. Nếu không có người chơi số đề, cá độ trúng số đề, thắng cược cá độ hoặc bị phát hiện, ngăn chặn trước khi có kết quả mở thưởng, kết quả bóng đá, kết quả đua ngựa... thì số tiền chủ đề, chủ cá độ dùng đánh bạc là tổng số tiền mà chủ đề, chủ cá độ đã nhận của những người chơi số đề, cá độ...
Tuy nhiên, tại mục 6 Phần I Giải đáp số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 của Tòa án nhân dân (TAND) tối cao về một số vấn đề nghiệp vụ hướng dẫn: “Thực tế các chủ đề thường thu hút con bạc bằng cách trừ tiền hoa hồng cho những người chơi đề khi họ ghi đề. Vì vậy, dẫn đến tình trạng số tiền ghi trên tờ phơi sẽ cao hơn số tiền mà người chơi đề phải bỏ ra để mua số đề; số tiền mà chủ đề nhận được từ người chơi sẽ thấp hơn số tiền ghi trên tờ phơi. Trong trường hợp này, xác định số tiền dùng để đánh bạc là số tiền ghi trên tờ phơi hay là số tiền thực tế mà người chơi đề đã bỏ ra? Đối với trường hợp này số tiền của người chơi đề, cá độ dùng đánh bạc là tổng số tiền mà họ đã bỏ ra để mua số đề, cá độ cộng với số tiền thực tế mà họ được nhận từ chủ đề, chủ cá độ (trong trường hợp người chơi số đề, cá độ có trúng số đề, thắng cược cá độ) hoặc là tổng số tiền mà họ đã bỏ ra để mua số đề, cá độ (trong trường hợp người chơi số đề, cá độ không trúng số đề, không thắng cược cá độ). Như vậy, số tiền mà họ đã bỏ ra không chỉ là số tiền thực tế họ đưa cho người ghi đề, ghi cá độ mà phải là số tiền ghi trên tờ phơi hoặc giấy tờ khác chứng minh việc đánh bạc trái phép”.
Như vậy, theo hướng dẫn của Nghị quyết số 01/2010 và hướng dẫn tại Giải đáp số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 của TAND tối cao thì xác định số tiền đánh bạc bằng hình thức lô, đề là số tiền ghi trên tờ phơi hoặc giấy tờ khác chứng minh việc đánh bạc. Việc xác định đúng số tiền dùng để đánh bạc, số tiền thu lợi từ việc đánh bạc là cần thiết và phù hợp với quy định pháp luật nhằm xử lý nghiêm minh đối với các tội phạm đánh bạc.
Tuy nhiên, hiện nay chưa có văn bản nào hướng dẫn về việc tịch thu hay không tịch thu số tiền đánh bạc, số tiền sẽ thu lợi từ việc đánh bạc (như tiền trúng thưởng, tiền hoa hồng), đối tượng nào phải chịu trách nhiệm nộp các khoản tiền này dẫn đến thực tiễn có nhiều cách hiểu và áp dụng pháp luật khác nhau trong giải quyết các vụ án đánh bạc theo hình thức lô, đề bị bắt sau khi có kết quả mở thưởng và người đánh bạc chưa thanh toán cho nhau.
Ví dụ: Ngày 18/6/2022, Trần Thị V làm chủ lô, đề có hành vi đánh bạc với 02 thư ký đề và 01 người chơi bằng cách nhận các bảng đề, tin nhắn có nội dung số lô, số đề thông qua ứng dụng mạng xã hội Zalo với tổng số tiền đánh bạc đài miền Trung là 101.395.666 đồng (tiền thực đánh là 51.276.384 đồng, tiền trên bảng đề 62.954.000 đồng, tiền trúng thưởng là 38.441.666). Tổng số tiền đánh bạc theo đài miền Bắc là 188.983.777 đồng (tiền thực đánh 59.524.768 đồng, tiền trên bảng đề là 74.306.000 đồng, tiền trúng thưởng là 114.677.777 đồng). Cụ thể: Số tiền đánh bạc với đối tượng (là thư ký) Nguyễn Thị N theo đài miền Trung là 70.036.222 đồng (trong đó số tiền thực tế là 33.418.461 đồng, số tiền ghi trên bảng đề là 43.444.000 đồng, tiền trúng thưởng là 26.592.222 đồng); theo đài miền Bắc 153.527.778 đồng (số tiền thực tế là 41.623.076 đồng, số tiền ghi trên bảng đề là 54.110.000 đồng, tiền trúng thưởng là 99.417.778 đồng). Số tiền đánh bạc với đối tượng (là thư ký) Trương Thị H theo đài miền Trung là 11.456.222 đồng (số tiền thực tế đánh là 5.506.923 đồng, số tiền ghi trên bảng đề là 7.159.000 đồng, tiền trúng thưởng là 4.297.222 đồng); theo đài miền Bắc 17.019.777 đồng (số tiền thực đánh là 7.647.692 đồng, số tiền ghi trên bảng đề là 9.942.000 đồng, tiền trúng thưởng là 7.077.777 đồng). Số tiền đánh bạc với đối tượng (là thư ký) Hoàng Thị M theo đài miền Trung 19.903.222 đồng (số tiền thực tế là 12.351.000 đồng, tiền trúng thưởng là 7.552.222 đồng); theo đài miền Bắc 18.436.222 đồng (số tiền thực tế là 10.254.000 đồng, tiền trúng thưởng là 8.182.222 đồng).
Chủ lô, đề và các thư ký đề thỏa thuận thư ký đề được hưởng hoa hồng từ chủ lô, đề cứ 1.000.000 đồng khách thực đánh thì được hưởng 70.000 đồng, tiền trên bảng đề được các thư ký ghi thêm 30% gọi là khuyến mại cho khách đánh bài (ví dụ khách đánh 10.000 đồng thì ghi trên bảng đề là 13.000 đồng). Theo thỏa thuận, các thư ký đề gửi bảng đề cho V từ 17h đến 17h45 hằng ngày, tiền thắng thua được thanh toán vào ngày hôm sau. Tại thời điểm bị bắt các thư ký đã chuyển các bảng đề, chưa nộp tiền đánh nhưng đã có kết quả mở thưởng và có người chơi trúng thưởng.
Đối với vụ án này, hiện có các quan điểm khác nhau về việc xử lý tiền trúng thưởng và tiền hoa hồng như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, phải tịch thu từ thư ký toàn bộ số tiền đã xác định là tang số đánh bạc bao gồm tiền trên bảng đề và tiền trúng thưởng, không tịch thu tiền hoa hồng. Do đó, N phải nộp 70.036.222 đồng theo đài miền Trung và 153.527.778 đồng theo đài miền Bắc; H phải nộp 11.456.222 đồng đài miền Trung và 17.019.777 đồng đài miền Bắc; M phải nộp 19.903.222 đồng đài miền Trung và 18.436.222 đồng đài miền Bắc. Bởi vì thư ký chưa nộp tiền đánh lên cho chủ lô, đề, thư ký chính là người được hưởng lợi từ số tiền đánh và tiền thưởng. Do đó, trách nhiệm nộp lại số tiền này thuộc về thư ký đề.
Quan điểm thứ hai cho rằng, chỉ tịch thu từ thư ký đề, người chơi đề số tiền mà người chơi đề đã bỏ ra để mua số lô, số đề - tức là số tiền thực. Việc thu tiền thực đánh ở đối tượng nào phụ thuộc vào kết quả của quá trình điều tra để xác định số tiền mua số đề hiện do ai quản lý thì thu ở đối tượng đó. Nếu thư ký giữ thì thu ở thư ký, nếu thư ký đã nộp lên chủ lô đề thì tịch thu ở chủ lô đề. Đối với tiền trúng thưởng và tiền hoa hồng, nếu đã được thanh toán thì tịch thu tại người thụ hưởng vì đây là khoản tiền thu lợi bất chính từ việc đánh bạc. Trường hợp tại thời điểm phát hiện hành vi đánh bạc mà các bên chưa thanh toán tiền trúng thưởng, tiền hoa hồng thì không tịch thu số tiền này mà chỉ tịch thu số tiền thực đã dùng vào việc đánh bạc vì thực tế khi họ bị phát hiện thì chưa được hưởng lợi tiền hoa hồng, tiền trúng thưởng.
Quan điểm thứ ba cho rằng, đối với tiền đánh bạc: Phải tịch thu số tiền đánh bạc ghi trên bảng đề từ thư ký đề là N, H, người chơi đề M. Vì thư ký N, H đang giữ số tiền thực khách ghi đề đã bỏ ra và số tiền khuyến mại 30% mà thư ký đề ghi lên cho khách, số tiền khuyến mại 30% do thư ký tặng thêm cho khách là cách để các thư ký thu hút người chơi số lô, số đề. Do đó, việc tịch thu số tiền đánh bạc trên bảng đề, tin nhắn đề là phù hợp với việc xác định số tiền đánh bạc theo Công văn giải đáp số 01/2017 và vai trò của thư ký khi chưa nộp tiền thực lên cho chủ lô, đề. Trường hợp thư ký đã nộp tiền thực lên cho chủ lô, đề thì thu tiền trên bảng đề tại chủ lô, đề.
Đối với tiền trúng thưởng và tiền hoa hồng: Phải tịch thu ở chủ lô đề, bởi vì chủ lô đề là người được hưởng lợi từ việc thắng - thua, nếu bảng đề khách đánh thua thì toàn bộ số tiền đánh bạc chủ lô, đề được hưởng, trường hợp bảng đề khách đánh trúng thưởng thì chủ lô đề phải bỏ tiền của mình ra để đưa cho thư ký đề trả thưởng. Quá trình đánh bạc giữa chủ đề, thư ký đề, người ghi đề đã thỏa thuận hằng ngày chỉ gửi các con số và số tiền đánh, còn việc thanh toán tiền đánh bạc, tiền hoa hồng và tiền trúng thưởng sẽ được thanh toán vào ngày hôm sau. Chủ lô đề là người được hưởng tiền đánh bạc do thư ký, người chơi nộp lên nếu khách không trúng thưởng và là người có trách nhiệm phải bỏ tiền của mình ra để đưa cho thư ký trả thưởng cho khách đánh trúng thưởng. Thư ký đề đánh bạc với chủ đề thông qua việc chuyển bảng đề từ khách lên chủ lô đề và nộp tiền đánh cho chủ lô đề nếu khách thua, nhận tiền trúng thưởng từ chủ lô, đề để trả thưởng cho khách nếu khách thắng. Thư ký đề không phải là người được hưởng tiền thắng - thua mà chỉ là người “trung chuyển” và được hưởng tiền hoa hồng theo tỉ lệ đã thỏa thuận. Số tiền được hưởng lợi của thư ký đề không phụ thuộc vào kết quả thắng - thua của khách và chủ lô đề.
Tác giả nhận thấy quan điểm thứ hai và quan điểm thứ ba đều có điểm hợp lý, phù hợp với quy định pháp luật và thực tiễn. Bỡi lẽ đối với quan điểm thứ nhất xác định chỉ tịch thu tiền thực đánh mà không tịch thu tiền ảo trên bảng đề, tiền trúng thưởng, tiền hoa hồng khi các bên chưa thanh toán cho nhau là vì thực tế số tiền sử dụng vào việc phạm tội là tiền khách đã bỏ ra để mua số đề, còn các khoản tiền ghi thêm trên bảng đề, tiền hoa hồng, tiền trúng thưởng là các khoản mà đối tượng sẽ nhận được nếu không bị phát hiện hành vi phạm tội, nhưng tại thời điểm phát hiện tội phạm các đối tượng chưa được hưởng. Do đó, các khoản tiền này chưa phải là tiền do phạm tội mà có hay khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội.
Đối với quan điểm thứ ba, phải tịch thu toàn bộ số tiền đánh bạc gồm tiền trên bảng đề, tiền trúng thưởng và tiền hoa hồng và tịch thu từ đối tượng đang giữ tiền hoặc đối tượng có nghĩa vụ thanh toán tiền thắng thua, hoa hồng. Quan điểm này phù hợp với tang số đánh bạc của từng bị can, bị cáo trong vụ án, phù hợp với mục đích phạm tội của các bị can, bị cáo, đó là số tiền hoa hồng, tiền trúng thưởng, tiền thắng bạc mà họ sẽ được hưởng khi thực hiện hành vi đánh bạc, đó là số tiền do phạm tội mà có, khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội mà họ sẽ được hưởng nếu chưa bị phát hiện. Do người chơi, thư ký và chủ lô đề đã thỏa thuận với nhau về việc đánh bạc, cách xác định thắng thua, thời hạn thanh toán thắng - thua, tiền hoa hồng và họ đã thực hiện xong hành vi phạm tội, kết quả thắng thua đã được xác định.
Qua nghiên cứu một số bản án xét xử về Tội đánh bạc bằng hình thức lô đề thấy rằng việc xử lý tiền đánh bạc, tiền hoa hồng và tiền trúng thưởng trong mỗi vụ án còn khác nhau. Hiện nay, số lượng các vụ án đánh bạc bằng hình thức lô, đề, cá cược ngày càng nhiều và thực tiễn xử lý tiền đánh bạc, tiền hoa hồng và tiền trúng thưởng còn nhiều vướng mắc dẫn đến việc xét xử chưa thống nhất. Đến nay, vẫn chưa có văn bản nào hướng dẫn áp dụng đối với việc xử lý các loại tiền trúng thưởng, hoa hồng, tiền đánh bạc và đối tượng bị xử lý trong vụ án đánh bạc. Để đảm bảo việc áp dụng pháp luật được chính xác và thống nhất nhằm nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự, nhất là các vụ án đánh bạc bằng hình thức lô, đề, cá cược, liên ngành trung ương cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn để kịp thời tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn, đảm bảo việc áp dụng pháp luật thống nhất.
Trần Thị Thu Hiền (Tạp chí Kiểm sát số 13/2023)