Qua công tác kiểm sát xét xử phúc thẩm các vụ án dân sự, VKSND tỉnh A nhận thấy có trường hợp Tòa án sơ thẩm giải quyết vụ án không đúng pháp luật dân sự, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự; cần thông báo để VKSND cấp huyện rút kinh nghiệm khi thực hiện chức năng kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác kiểm sát.
Nội dung và quá trình giải quyết vụ án như sau:
Vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 12/2019/TLPT-DS ngày 30/01/2019 của Tòa án nhân dân huyện D về việc “Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu” giữa:
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn L, bà Nguyễn Thị Hồng V.
Địa chỉ: 27 H, thị trấn D, huyện D, tỉnh A.
Đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị Như N, địa chỉ: 12A, phường T, thành phố Z.
Bị đơn: Văn phòng công chứng Phạm Văn Y (VPCC Y)
Địa chỉ: 269 Lạc Long Quân, thị trấn D, huyện D, tỉnh A.
Đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Thị G - Trưởng VPCC Y.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Đỗ Hữu Tr - Công chứng viên VPCC Y.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông Đỗ Hữu Tr.
Địa chỉ: 95/1 Lý Tự Trọng, thị trấn D, huyện D, tỉnh A.
- Bà Ngô Thị D
Địa chỉ: Tổ dân phố (TDP) T 3, thị trấn D, huyện D, tỉnh A.
- Bà Nguyễn Thị Yến Nh.
Địa chỉ: Thôn Tr, xã T, huyện D, tỉnh A.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Tiến D, địa chỉ: TDP Phan Bội Châu 1, thị trấn D, huyện D, tỉnh A.
Vụ án do TAND tỉnh A thụ lý, giải quyết theo Thông báo về việc thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự số 21/2020/TBTL-TA ngày 10/3/2020.
1. Nội dung vụ án:
Theo đơn khởi kiện ngày 03/10/2018; đơn sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện ngày 29/01/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án sơ thẩm, nguyên đơn - ông Nguyễn Văn L, bà Nguyễn Thị Hồng V và bà Nguyễn Thị Như N - đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Bà Ngô Thị Đ là chủ sử dụng đất thửa số 549, tờ bản đồ (TBĐ) số 11 tại TDP T 3, TT. D, huyện D, tỉnh A theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (GCN QSDĐ, QSHNO & TSKGLVĐ) số CI 603548, số vào sổ cấp GCN: CH04350 do Ủy ban nhân dân (UBND) huyện D cấp ngày 11/9/2017.
Ngày 15/9/2017, chúng tôi và bà Đ cùng ký Họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 3368/2017, quyển số 02 TP/CC-SCC/HĐGD tại VPCC Y nhưng cho đến nay bà Đ vẫn chưa giao đất cho chúng tôi và bà Đ còn cản trở chúng tôi làm thủ tục đăng ký sang tên QSDĐ.
Ngày 22/9/2018, chúng tôi đã khởi kiện đến TAND huyện D yêu cầu công nhận Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà V và bà Đ để chúng tôi có cơ sở làm thủ tục đăng ký sang tên QSDĐ; buộc bà D giao cho chúng tôi thửa đất trên nhưng cho đến nay TAND huyện D chưa thụ lý đơn khởi kiện của chúng tôi.
Vì sự tranh chấp trên với bà Đ nên bà V đã phát bệnh tâm thần. Bà V có tiền sử tâm thần và có sổ điều trị ngoại trú bệnh tâm thần, từ ngày 21/9/2018 đến ngày 27/9/2018 bà V phát bệnh phải nhập viện tại Trung tâm y tế huyện D. Lợi dụng lúc bà V bị bệnh “Rối loạn chức năng tiền đình”, ngày 24/9/2018, bà Đ và Công chứng viên Đỗ Hữu Tr đã đến Trung tâm y tế huyện D lấy chữ ký của bà V trên giấy ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Yến Nh với nội dung: Bà V ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Yến Nh thực hiện chấm dứt hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ số 3368/207, quyển số 02 TP/CC-SCC/HĐGD do VPCC Y chứng nhận ngày 15/9/2017...”
Từ giấy ủy quyền này, bà Nh đã thay mặt bà V ký 02 hợp đồng gồm: Hợp đồng chấm dứt hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ được VPCC Y công chứng ngày 15/9/2017; Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ từ bà Đ sang cho bà Nguyễn Thị Yến Nh.
Việc công chứng của Công chứng viên Đỗ Hữu Tr đối với giấy ủy quyền, 02 hợp đồng trên đã sai phạm do bà V đang bị bệnh liên quan đến não, việc đưa bà V ký các giấy tờ trên khi bà V đang nằm viện cho thấy việc công chứng mờ ám, trái pháp luật; thực hiện việc công chứng hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ từ bà Đ sang cho bà Nh trong khi giấy chứng nhận bản chính này chúng tôi đang giữ; Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ công chứng tại VPCC Y ngày 15/9/2017 giữa bà Đ và bà V tuy thời điểm công chứng chỉ có bà V đứng tên nhưng tài sản nhận chuyển nhượng là của chung vợ chồng, khi công chứng, công chứng viên công chứng chấm dứt hợp đồng ngày 15/9/2017 không có ý kiến của người chồng là ông L làm thiệt hại quyền lợi của ông L và việc hủy bỏ Hợp đồng này phải do VPCC Y công chứng hợp đồng này thực hiện.
Vì vậy, nguyên đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu đối với các văn bản do Công chứng viên Đỗ Hữu Tr - VPCC Y công chứng ngày 24/9/2018 bao gồm: Giấy ủy quyền giữa bà V và bà Nh, số công chứng 1356; Hợp đồng chấm dứt Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà Đ và bà V, số công chứng 1357; Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà Đ và bà Nh, số công chứng 1358.
Tại biên bản hòa giải ngày 19/7/2019 và tại phiên tòa sơ thẩm, bà N rút yêu cầu Tòa án giải quyết tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu đối với các văn bản do Công chứng viên Đỗ Hữu Tr - VPCC Y công chứng ngày 24/9/2018 đối với Giấy ủy quyền giữa bà V và bà Nh, số công chứng 1356; Hợp đồng chấm dứt Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà Đ và bà V, số công chứng 1357 và xác định nguyên đơn chỉ yêu cầu Tòa án tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà Đ và bà Nh, số công chứng 1358 vô hiệu.
Trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án sơ thẩm, bị đơn - ông Đỗ Hữu Tr, đại diện theo ủy quyền của VPCC Y trình bày:
Việc VPCC Y công chứng đối với Giấy ủy quyền của bà V cho bà Nh ngày 24/9/2018, số công chứng 1356 là đúng quy định pháp luật. Đối với Hợp đồng chấm dứt Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà Đ và bà V do bà Nh - đại diện theo ủy quyền của bà V ký, được VPCC Y công chứng số 1357 ngày 24/9/2018 là không đúng thẩm quyền. Sau khi phát hiện nhầm lẫn, VPCC Y đã báo cho các đương sự biết và các đương sự đã đồng ý lập hợp đồng hủy bỏ hợp đồng chấm dứt Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà Đ và bà V nói trên, số công chứng 1359 cùng ngày 24/9/2018. Nay nguyên đơn rút yêu cầu tuyên bố Giấy ủy quyền giữa bà V và bà Nh, số công chứng 1356; Hợp đồng chấm dứt Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Đ và bà V, số công chứng 1357 vô hiệu, bị đơn không có ý kiến.
Đối với yêu cầu của nguyên đơn về việc tuyên bố Văn bản công chứng số 1358 ngày 24/9/2018 tại VPCC Y đối với Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà Đ và bà Nh vô hiệu thì bị đơn đồng ý.
Trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án sơ thẩm, ông Đỗ Hữu Tr - người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
Ông là Công chứng viên VPCC Y, là người thực hiện việc công chứng giấy ủy quyền giữa bà V (Bên ủy quyền) và bà Nh (Bên nhận ủy quyền), số công chứng 1356; Hợp đồng chấm dứt Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà Đ và bà V, số công chứng 1357 và Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà Đ và bà Nh, số công chứng 1358.
Sau khi phát hiện nhầm lẫn, VPCC Y đã báo cho các đương sự biết và các đương sự đã đồng ý lập hợp đồng hủy bỏ hợp đồng chấm dứt Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà Đ và bà V nói trên, số công chứng 1359 cùng ngày 24/9/2018. Nay nguyên đơn rút yêu cầu tuyên bố Giấy ủy quyền giữa bà V và bà Nh, số công chứng 1356; Hợp đồng chấm dứt Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Đ và bà V, số công chứng 1357 vô hiệu, ông Tr không có ý kiến gì, do Tòa án xem xét quyết định. Đối với yêu cầu của nguyên đơn, ông thống nhất với ý kiến của bị đơn.
Trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án sơ thẩm, bà Ngô Thị Đ - người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
Vào năm 2017 do cần tiền để chữa bệnh nên bà Đ đã vay của bà V 100.000.000 đồng với lãi suất 6%/tháng. Bà V đồng ý cho vay nhưng buộc bà phải thế chấp QSDĐ đối với thửa đất số 549, TBĐ số 11 diện tích 639,5m2 tại TT. D đã được UBND huyện D cấp GCN QSDĐ số CH04350 đứng tên bà để bảo đảm cho khoản vay nhưng vì không đăng ký thế chấp theo quy định về giao dịch đảm bảo được nên bà V buộc bà Đ phải ký Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ thửa số 549, tbđ số 11 tọa lạc tại TT. D, huyện D cho bà V, đã công chứng tại VPCC Y công chứng số 3368 ngày 15/9/2017 nhằm đảm bảo cho khoản vay 100.000.000 đồng bà V cho bà Đ vay. Theo thỏa thuận bằng miệng, khi nào bà Đ trả hết gốc và lãi thì hai bên lập thỏa thuận hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ ngày 15/9/2017 và bà V phải trả lại GCN QSDĐ trên cho bà Đ. Bà đã giao cho bà V GCN QSDĐ số CH04350 và nhận số tiền 100.000.000 đồng vào ngày 15/9/2017. Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ ngày 15/9/2017 giữa bà và bà V là hợp đồng giả tạo nhằm che giấu hợp đồng vay tài sản giữa bà và bà V.
Tính đến ngày 15/3/2018, bà Đ đã trả được 40.000.000 đồng tiền nợ gốc và lãi. Sau này bà Đ không tiếp tục trả lãi thì bà Đ nghe tin bà V đang làm thủ tục sang tên đất mà bà Đ thế chấp cho bà V nên bà tìm người ngăn chặn. Con trai bà giới thiệu ông Lê Tiến Q giúp bà lấy lại GCN QSDĐ. ông Q yêu cầu bà giao hết giấy tờ về việc vay tiền của bà V cho ông để ông ngăn chặn việc bà V đăng ký sang tên. Do hoàn toàn tin tưởng ông Q nên bà đã giao bản chính sổ nợ có chữ viết và chữ ký của bà V thể hiện việc vay tiền và trả nợ giữa bà Đ và bà V cho ông Lê Tiến Q và ký vào tất cả các văn bản, giấy tờ mà ông Q yêu cầu mà không đọc xem nội dung ghi gì bởi ông Q nói rằng phải ký vào các văn bản đó mới thu hồi được sổ đỏ.
Sau khi được photo các tài liệu trong vụ án này thì bà Đ mới biết ông Lê Tiến Q đã tiến hành làm các thủ tục nhận ủy quyền từ bà V để từ đó làm văn bản hủy bỏ Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà và bà V ngày 25/9/2017, sau đó lại tiếp tục lập hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ mảnh đất của bà từ bà V sang cho bà Nh và bà còn biết văn bản mà bà ký khi nằm tại trung tâm y tế huyện D mổ ruột thừa có nội dung là bà đồng ý nhờ bà Nh đứng ra thanh toán tiền nợ của bà cho bà V với số tiền 400.000.000 đồng.
Ngày 24/9/2018, bà Đ và bà V (do bà Nh đại diện) ký hợp đồng chấm dứt Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 15/9/2017 nêu trên tại VPCC Y số công chứng 1357. Tiếp đó, bà Đ ký Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ thửa đất này cho bà Nh cũng tại VPCC Y cùng ngày, số công chứng 1358. Sau đó, bà đã ký Hợp đồng hủy bỏ hợp đồng chấm dứt hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ số công chứng 1358 đúng như bị đơn trình bày.
Bà Đ đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc tuyên bố văn bản công chứng là Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà Đ và bà Nh, số công chứng 1358 ngày 24/9/2018 tại VPCC Y thửa đất số 549, tbđ số 11 diện tích 639,5m2 tại TT. D đã được UBND huyện D cấp Giấy chứng nhận số CH04350 đứng tên bà. Bà Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của việc tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu.
Trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án sơ thẩm, bà Nguyễn Thị Yến Nh – người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và ông Lê Tiên Q - đại diện theo ủy quyền của bà Nh trình bày:
Việc VPCC Y công chứng giấy ủy quyền giữa bà V (Bên ủy quyền) và bà Nh (Bên nhận ủy quyền), số công chứng 1356 ngày 24/9/2018 là đúng pháp luật. Tại thời điểm công chứng Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà Đ và bà Nh, số công chứng 1358 ngày 24/9/2018 tại VPCC Y thì có bản chính GCN QSDĐ đứng tên bà Đ. Việc công chứng viên Đỗ Hữu Tr - VPCC Y công chứng Hợp đồng chấm dứt Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà Đ và bà V tại VPCC Y có đúng thẩm quyền hay không là trách nhiệm của Công chứng viên. Bà V đã ký giấy ủy quyền cho bà Nh để bà Nh thực hiện việc chấm dứt Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà V và bà Đ trước đây và bà V đã nhận số tiền 400.000.000 đồng của bà Nh theo hợp đồng thỏa thuận viết tay đề ngày 24/9/2018 giữa bà Nh với bà V nên bà V không còn quyền gì đối với thửa đất số 549, TBĐ số 11 diện tích 639,5m2 tại TT. D và không liên quan gì đến Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà Đ và bà Nh, số công chứng 1358 ngày 24/9/2018. Do đó, Bà Nh không đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn, tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà Đ và bà Nh, số công chứng 1358 ngày 24/9/2018 tại VPCC Y là vô hiệu.
Bản án dân sự sơ thẩm số 08/2019/DS-ST ngày 04/10/2019 của TAND huyện D quyết định:
- Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyên Văn L.
- Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hồng V về việc yêu cầu Tòa án tuyên bố văn bản công chứng do Công chứng viên Đỗ Hữu Tr thuộc VPCC Y công chứng số 1356 ngày 24/9/2018 đối với giấy ủy quyền của bà Nguyễn Thị Hồng V cho bà Nguyễn Thị Yến Nh và văn bản công chứng số 1357 ngày 24/9/2018 đối với Hợp đồng chấm dứt hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà Ngô Thị Đ với bà Nguyễn Thị Hồng V vô hiệu.
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyên Thị Hồng V. Tuyên bố văn bản công chứng do Công chứng viên Đô Hữu Tr thuộc VPCC Y công chứng số 1358 ngày 24/9/2018 đối với Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà Ngô Thị Đ với bà Nguyễn Thị Yến Nh vô hiệu.
Ngoài ra, Bản án còn tuyên về án phí dân sự sơ thẩm, các quy định liên quan đến việc thi hành án, quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định.
Ngày 17/10/2019, ông Lê Tiến Q - đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị Yến Nh kháng cáo toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm trên.
Ngày 05/6/2020, Hội đồng xét xử phúc thẩm TAND tỉnh A xét xử và tuyên hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 08/2019/DS-ST ngày 04/10/2019 của TAND huyện D, do Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà Đ và và Nh, số công chứng 1358 ngày 24/9/2018 tại VPCC Y vô hiệu nhưng không giải quyết hậu quả pháp lý của Hợp đồng vô hiệu.
2. Vấn đề cần rút kinh nghiệm
Toà án sơ thẩm tuyên Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu nhưng không giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu, vi phạm Điều 131 Bộ luật Dân sự:
Tòa án sơ thẩm nhận định Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Ngô Thị Đ và bà Nguyễn Thị Yến Nh số công chứng số 1358, quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGD do VPCC Y chứng nhận ngày 24/9/2018 đối với thửa đất số 549, TBĐ số 11 diện tích 639,5m2 tọa lạc tại TDP Phú Lộc T 3, TT. D, huyện D, tỉnh A vô hiệu là có căn cứ. Vì: Thửa đất số 549 trên chính là thửa đất bà Đ đã thực hiện giao dịch chuyển nhượng cho bà V theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Ngô Thị Đ và bà Nguyễn Thị Hồng V vào ngày 15/9/2017, số công chứng 3368/2017, quyển số 02 TP/CC-SCC/HĐGD tại VPCC Y đang tồn tại, có giá trị pháp lý nhưng Tòa án sơ thẩm không giải quyết hậu quả pháp lý đối với hợp đồng vô hiệu là vi phạm Điều 131 Bộ luật Dân sự, giải quyết vụ án không triệt để, làm ảnh hưởng quyền lợi của bà Nh.
Theo đó, để giải quyết hậu quả pháp lý của việc tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Ngô Thị Đ và bà Nguyễn Thị Yến Nh vô hiệu, Tòa án phải xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản tranh chấp và làm rõ các nội dung liên quan để xác định thiệt hại thực tế (nếu có), lỗi của các bên... Vì vậy, việc Tòa án cấp sơ thẩm không thực hiện việc xem xét, thẩm định tại chỗ, xác định hiện trạng thửa đất, tài sản đang tồn tại trên đất là căn nhà cấp 4 và định giá đối với nhà, đất tại thửa đất số 549, TBĐ số 11 diện tích 639,5m2 tọa lạc tại TDP Phú Lộc T 3, TT. D, huyện D, tỉnh A là chưa đảm bảo cơ sở cho việc xem xét, giải quyết vụ án.
Trên đây là trường hợp TAND cấp huyện giải quyết vụ án không đúng pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự. VKSND tỉnh A thông báo để VKSND các huyện, thị xã, thành phố rút kinh nghiệm trong thực hiện chức năng kiểm sát đối với việc giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án cùng cấp nhằm nâng cao hiệu quả đối với công tác nàỵ.