Trong thời gian qua, tình hình tội phạm tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng cả về quy mô, tính chất mức độ nghiêm trọng, đã gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng cho nền kinh tế, tài sản của nhà nước và nhân dân, làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng...
Một số giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các lực lượng chuyên trách điều tra, xử lý các vụ án tham nhũng, đặc biệt là các tội tham ô tài sản, nhận hối lộ
Trong thời gian qua, tình hình tội phạm tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng cả về quy mô, tính chất mức độ nghiêm trọng, đã gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng cho nền kinh tế, tài sản của nhà nước và nhân dân, làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng. Để đấu tranh phòng, chống tham nhũng hiệu quả, Đảng và Nhà nước đã xây dựng và tổ chức triển khai thực hiện nhiều biện pháp, cơ chế, chính sách pháp luật về đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Các cơ quan bảo vệ pháp luật đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện cơ chế, chính sách đấu tranh phòng, chống tham nhũng; đã phát hiện và xử lý nghiêm minh các hành vi tham nhũng; nhiều vụ án lớn về tham ô tài sản, nhận hối lộ đã được đưa ra truy tố, xét xử kịp thời. Trong đó, Viện kiểm sát nhân dân với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án tham nhũng đã góp phần tích cực vào kết quả thực hiện cơ chế, chính sách đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, so với yêu cầu, đòi hỏi của công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, việc xây dựng và thực hiện cơ chế, chính sách pháp luật để đấu tranh phòng, chống tham nhũng còn có những mặt tồn tại, hạn chế, ảnh hưởng đến hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm tham nhũng nói chung, các tội tham ô tài sản và nhận hối lộ nói riêng.
Trước diễn biến tình hình tội phạm tham nhũng cũng như thực trạng, kết quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm tham nhũng, dư luận cử tri đang đặt câu hỏi lớn: Vì sao chúng ta chủ yếu phát hiện, xử lý các vụ án tham nhũng nhỏ; các vụ án tham nhũng lớn còn ít được phát hiện, xử lý và tại sao tài sản được thu hồi trong các vụ án tham nhũng rất thấp (chiếm tỷ lệ dưới 10% số tài sản đã chiếm đoạt)? Phải chăng cơ chế, chính sách đấu tranh, xử lý các vụ án tham nhũng, đặc biệt là các tội tham ô tài sản, nhận hối lộ đang có những vấn đề hạn chế, bất cập cả về phương diện nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách pháp luật cũng như việc tổ chức triển khai thực hiện trong thực tiễn, cần phải được nghiên cứu, đổi mới nhằm tạo bước đột phá làm chuyển biến công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Dưới đây là một số giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các lực lượng chuyên trách điều tra, xử lý các vụ án tham nhũng, đặc biệt là các tội tham ô tài sản, nhận hối lộ, Trang tin điện tử Viện kiểm sát nhân dân tối cao giới thiệu để bạn đọc tham khảo.
1) Đổi mới hoạt động của các cơ quan điều tra chuyên trách chống tham nhũng
Các Cơ quan điều tra chuyên trách điều tra các tội phạm về tham nhũng cần được quan tâm, tập trung chỉ đạo, nâng cao chất lượng phát hiện, khởi tố, điều tra các hành vi tham nhũng. Thực hiện đúng chức năng, thẩm quyền của Cơ quan điều tra theo quy trình, quy định của pháp luật trong phát hiện, điều tra các vụ án tham nhũng, đảm bảo khách quan, toàn diện, chống oan sai, bỏ lọt tội phạm, vi phạm trong hoạt động điều tra, hạn chế thấp nhất việc điều tra bổ sung hoặc điều tra lại…
Thực tế các cơ quan điều tra chuyên trách của Việt Nam còn thiếu một số quyền hạn cần thiết và năng lực để tiến hành điều tra tội phạm về tham nhũng có hiệu quả. Do vậy hoàn thiện các quy định về phòng, chống tham nhũng nói chung, các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra nói riêng cần quan tâm đến vấn đề này bằng cách quy định rõ những thẩm quyền đặc biệt như quyền tiếp cận các báo cáo quyết toán và giao dịch tài chính đáng ngờ, yêu cầu cung cấp sổ sách ngân hàng và quyền áp dụng các biện pháp theo dõi như được ghi âm, ghi hình bí mật. Cho phép Cơ quan điều tra được tiến hành các biện pháp nghiệp vụ đặc biệt khi có tài liệu về đối tượng tham nhũng trước khi khởi tố bị can như trong đấu tranh với các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội phạm về ma túy được quy định trong Luật an ninh quốc gia, Luật phòng, chống ma túy nhằm nâng cao hiệu quả phát hiện, khởi tố, điều tra các tội phạm về tham nhũng.
Đổi mới hoạt động của các cơ quan điều tra cần phải xác định cụ thể quyền hạn và trách nhiệm về tố tụng cho Điều tra viên để trong quá trình điều tra vụ án, Điều tra viên có quyền độc lập tương đối, có thể chủ động đấu tranh với tội phạm về tham nhũng, tránh tình trạng can thiệp làm kéo dài thời gian điều tra hoặc cản trở điều tra.
Các Cơ quan điều tra chuyên trách cần đẩy mạnh công tác nắm tình hình, sử dụng đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ, kết với tăng cường kiểm tra, chấn chỉnh việc chấp hành pháp luật trong tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố về tham nhũng, để chủ động phát hiện, khởi tố, điều tra các hành vi có dấu hiệu tham nhũng. Cơ quan điều tra chuyên trách thuộc Bộ Công an phải tổ chức sơ kết, tổng kết các chuyên án, vụ án lớn về tham nhũng đã phát hiện, điều tra, xử lý trong thời gian qua để rút ra đặc điểm, phương thức, thủ đoạn của tội phạm. Rút kinh nghiệm, nâng cao hiệu quả công tác phát hiện, khởi tố, điều tra, xử lý tội phạm về tham nhũng. Thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong công tác phát hiện, điều tra, xử lý các vụ việc, vụ án liên quan đến tham nhũng tại các địa phương.
2) Đổi mới hoạt động của các đơn vị thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử của Viện KSND đối với các vụ án tham nhũng, đặc biệt là các tội tham ô tài sản, nhận hối lộ
Các đơn vị thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án tham nhũng trong Viện kiểm sát nhân dân có vai trò quan trọng, quyết định đối việc việc điều tra, xử lý các vụ án tham nhũng. Do vậy phải bảo đảm cho các đơn vị này thực sự độc lập, có thực quyền, được tiếp cận đầy đủ đối với các tài liệu của các cơ quan hành pháp, các tổ chức, doanh nghiệp kinh tế, tài chính… và cán bộ, công chức có liên quan đến tội phạm về tham nhũng đang được điều tra để có đủ căn cứ truy tố.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn được giao, cần xây dựng đầy đủ và thực hiện tốt các quy chế phối hợp trong việc tiếp nhận, quản lý, kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm giữa Viện kiểm sát nhân dân với các cơ quan, tổ chức có liên quan, trong đó, Viện kiểm sát có vai trò chủ đạo trong việc nắm toàn bộ các tin báo, tố giác về tội phạm về tham nhũng. Viện kiểm sát nói chung, các đơn vị thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án tham nhũng nói riêng phải sử dụng mọi biện pháp, mọi kênh để thực sự chủ động trong nắm và quản lý thông tin về tội phạm. Kiểm sát chặt chẽ hoạt động điều tra, chịu trách nhiệm về các quyết định của mình trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra. Tăng cường phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra ngay từ khi nhận được tin báo, tố giác về tội phạm về tham nhũng, kịp thời đề ra yêu cầu xác minh và phân loại xử lý. Dự báo trước những khó khăn, phức tạp trong quá trình điều tra để báo cáo Lãnh đạo hai ngành cho ý kiến chỉ đạo kịp thời. Viện kiểm sát các cấp phải cùng Cơ quan điều tra phát hiện và khắc phục kịp thời những sai phạm trong quá trình điều tra vụ án hình sự nói chung, các vụ án tham nhũng nói riêng, bảo đảm việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can có căn cứ và đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm.
Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp, các đơn vị thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án tham nhũng và mỗi Kiểm sát viên phải quán triệt nguyên tắc không làm oan cho người ngay nhưng cũng không bỏ lọt tội phạm, mọi hành vi phạm tội đều phải được phải được phát hiện, điều tra, xử lý theo pháp luật. Do vậy, phải chủ động thực hành quyền công tố ngay từ khi khởi tố vụ án, bám sát quá trình điều tra, phối hợp với Điều tra viên xác lập định hướng điều tra và xây dựng kế hoạch điều tra cụ thể, kịp thời đề ra yêu cầu điều tra đối với những vụ án tham nhũng. Kiểm sát chặt chẽ việc thu thập chứng cứ, nhất là chứng cứ liên quan đến thủ đoạn và nguồn gốc tài sản tham nhũng; khám xét và kê biên tài sản phải kịp thời để ngăn ngừa việc tẩu tán tài sản. Định kỳ cùng Điều tra viên đánh giá kết quả điều tra, phân tích chứng cứ, xác định tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, hướng xử lý với người phạm tội, từ đó đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án. Kịp thời phát hiện những oan, sai, bỏ lọt tội phạm và khắc phục những vi phạm trong quá trình điều tra để hoàn chỉnh hồ sơ đưa ra truy tố.
Trước khi kết thúc điều tra cần thống nhất về việc đánh giá toàn bộ vụ án và đường lối xử lý. Đối với những vụ án tham nhũng do cơ quan điều tra của Bộ Công an khởi tố, điều tra thì ngay sau khi kết thúc điều tra, Kiểm sát viên phải báo cáo lãnh đạo để thông báo cho Viện kiểm sát và Tòa án nơi được uỷ quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm để các cơ quan này tiếp xúc hồ sơ, tham gia các phiên họp với các Bộ, Ngành Trung ương để có điều kiện nắm chắc hồ sơ trước khi quyết định tiếp nhận hồ sơ vụ án được ủy quyền về địa phương để xét xử.
Các đơn vị thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử các vụ án tham nhũng phải nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố tại phiên toà, đấu tranh làm rõ tội trạng của các bị cáo; đồng thời kiểm sát chặt chẽ quá trình xét xử, nhất là việc ra bản án, quyết định của Toà án. Phối hợp chặt chẽ với Toà án trong việc đẩy nhanh tiến độ xét xử đối với các vụ án tham nhũng. Hạn chế tối đa việc trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung, bảo đảm việc xử lý vụ án nhanh chóng, kịp thời, nghiêm minh. Thường xuyên đôn đốc và phối hợp với Cơ quan thi hành án để có biện pháp thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng cho Nhà nước. Đối với những bản án, quyết định của Toà án về các tội phạm về tham nhũng có mức hình phạt chưa tương xứng hoặc vi phạm pháp luật phải kịp thời kháng nghị để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm.
Hàng năm Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần tổ chức các đợt tập huấn để tổng kết, rút kinh nghiệm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án tham nhũng điển hình để từ đó tìm ra những ưu điểm cần phát huy, những tồn tại cần khắc phục đồng thời tìm ra những khó khăn vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật để có hướng dẫn, giải quyết kịp thời.
3) Đổi mới hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân đối với các vụ án tham nhũng, tham ô tài sản, nhận hối lộ
Việc đổi mới hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân phải đáp ứng yêu cầu giải quyết vụ án các vụ án nói chung, các vụ án về tham nhũng nói riêng thấu tình, đạt lý, chính xác, khách quan, kịp thời; việc thực hiện các quy trình tố tụng vừa phải bảo đảm tính dân chủ, vừa phải bảo đảm tính pháp chế, thể hiện quyền uy, tôn nghiêm khi phán xét, phân xử, thực sự là hiện thân của công lý. Mặt khác, việc đổi mới hoạt động của Tòa án nhân dân phải nhằm nâng cao sự tín nhiệm của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan Tòa án, sự gần gũi, tin yêu của nhân dân đối với Thẩm phán, cán bộ công chức của ngành Tòa án nhân dân.
Trong hoạt động xét xử của Tòa án, nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một nguyên tắc cơ bản của hoạt động xét xử. Nguyên tắc này đã được ghi nhận trong Hiến pháp và được cụ thể hóa trong nhiều quy định của BLTTHS. Tuy nhiên, trong thời gian qua việc thực hiện nguyên tắc này chưa tốt, việc can thiệp vào hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm diễn ra còn phổ biến, thậm chí có nơi nguyên tắc này còn bị vi phạm nghiêm trọng. Kinh nghiệm chống tham nhũng của các nước cho thấy rằng không thể chống tham nhũng hiệu quả nếu không có một hệ thống tư pháp nói chung, hệ thống Tòa án nói riêng độc lập. Do vậy, phải sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ những quy định của pháp luật không còn phù hợp để bảo đảm tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm trong hoạt động xét xử. Quán triệt những người có thẩm quyền như Chánh án, Phó Chánh án, Ủy ban Thẩm phán và các cấp ủy Đảng trong việc không can thiệp vào hoạt động xét xử của Hội đồng xét xử. Đảng lãnh đạo bằng việc ban hành đường lối chính sách, giới thiệu nhân sự vào những vị trí quan trọng chứ không làm thay và không can thiệp cụ thể vào việc xét xử của Hội đồng xét xử trong từng vụ án cụ thể. Tách bạch hoạt động quản lý với hoạt động tố tụng, lãnh đạo Tòa án và Tòa án cấp trên không can thiệp vào hoạt động xét xử của Hội đồng xét xử, đặc biệt là không đánh giá chứng cứ thay Hội đồng xét xử, không áp đặt mức án khi xét xử, đảm bảo tuyệt đối cho Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đồng thời, Tòa án các cấp cần tăng cường sự phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra về Viện kiểm sát để giải quyết dứt điểm các vụ án tham nhũng. Lãnh đạo các Tòa án cần cử Thẩm phán có kinh nghiệm công tác, có năng lực chuyên môn tham gia tiếp cận hồ sơ ngay từ giai đoạn điều tra, truy tố để nắm vững các tình tiết khách quan của vụ án, bảo dảm cho việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn Điều 60 BLHS về án treo, nhất là việc áp dụng quy định này đối với các tội phạm về tham nhũng, nhằm bảo đảm thực hiện đúng và thống nhất. Quá trình xử lý tội phạm về tham nhũng, phải thực hiện nghiêm túc quy định tại khoản 4 Điều 4 Luật phòng, chống tham nhũng, theo đó, xử lý nghiêm và không cho hưởng án treo đối với các bị cáo phạm tội tham nhũng là người đứng đầu cơ quan, tổ chức và người phạm tội tham nhũng mà không chủ động khai báo, không tích cực hạn chế thiệt hại, không tự giác nộp lại tài sản… Tăng cường công tác giám đốc, kiểm tra việc xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới, kịp thời phát hiện và khắc phục đối với các sai sót về chuyên môn, nghiệp vụ trong quá trình giải quyết vụ án, trong đó có việc cho hưởng án treo không đúng quy định của pháp luật.
Đối với Thẩm phán để vụ án tham nhũng quá thời hạn xét xử hoặc cho bị cáo được hưởng án treo không đúng quy định của pháp luật, cần được xem xét, đánh giá nguyên nhân, mức độ lỗi, nhằm xác định rõ trách nhiệm và có biện pháp xử lý nghiêm khắc. Đối với người đứng đầu cơ quan nếu để vụ án tham nhũng quá thời hạn xét xử theo quy định của pháp luật thì tùy theo mức độ lỗi để xem xét trách nhiệm và xử lý kỷ luật.
4) Xây dựng cơ chế phối hợp giữa Thanh tra, Kiểm toán với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong phát hiện, điều tra, xử lý các vụ án tham nhũng, đặc biệt là các tội tham ô tài sản, nhận hối lộ
Hiện nay, hoạt động chống tham nhũng của các cơ quan tư pháp, thanh tra, kiểm toán còn thiếu sự phối hợp thống nhất. Thậm chí, giữa một số ngành như Công an, Kiểm sát, Thanh tra, Kiểm toán còn có sự chống chéo lẫn nhau, làm giảm đáng kể hiệu quả công tác chống tham nhũng. Trong khi các quy định của pháp luật chưa thật sự đồng bộ, chặt chẽ thì sự phối hợp giữa các cơ quan này là hết sức cần thiết. Ban hành các văn bản pháp luật, trong đó phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan, đồng thời có cơ chế thống nhất giữa các cơ quan trong việc điều tra, xử lý những vụ việc tham nhũng.
Đẩy mạnh hoạt động phối hợp đấu tranh chống tham nhũng trên thực tế, tạo một cơ chế phối hợp thống nhất, đảm bảo hoạt động phối hợp đồng bộ, liên tục và thường xuyên ở tất cả các khâu của công tác đấu tranh chống tham nhũng, cụ thể:
Chỉ đạo tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan trong việc trao đổi cung cấp thông tin để chủ động đánh giá thực trạng, dự báo tình hình tội phạm về tham nhũng để tổ chức điều tra, xác minh làm rõ.
Phối hợp nghiên cứu tài liệu hồ sơ vụ án ngay từ giai đoạn ban đầu, thống nhất nội dung cần điều tra, tránh trả hồ sơ để điều tra bổ sung, phục vụ tốt công tác xét xử. Sự phối hợp vừa phải trên cơ sở hợp tác, bổ trợ cho nhau, vừa phải bảo đảm tính độc lập theo chức năng được phân công và yêu cầu kiểm soát lẫn nhau.
Thường xuyên tổng hợp vướng mắc để đánh giá tình hình, giải quyết kịp thời những vấn đề cấp bách, vướng mắc, khó khăn phát sinh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
Xác định đầu mối, giao ban, thành lập Tổ công tác liên ngành và đặc biệt là cung cấp, trao đổi thông tin, tài liệu về tiến độ, kết quả điều tra, truy tố, xét xử các vụ án. Đồng thời, xác định những vấn đề trọng tâm, làm rõ, cụ thể hóa một số nhiệm vụ trong nội dung phối hợp để bảo đảm sự phối hợp nhịp nhàng, thực hiện tốt nhiệm vụ được giao của các cơ quan. Ngoài ra, việc theo dõi, đôn đốc thực hiện kết luận, kiến nghị sau thanh tra, kiểm toán cũng như sau điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng cũng cần được tăng cường vì đây là một khâu thực hiện yếu trong thời gian qua.
5) Hoàn thiện cơ chế giám định tài chính, giám định kế toán và các lĩnh vực giám định khác liên quan đến phát hiện, xử lý các vụ án tham nhũng, đặc biệt là các tội tham ô tài sản, nhận hối lộ
Thực hiện chủ trương “Quy định chặt chẽ, rõ ràng về trình tự, thủ tục, thời hạn trưng cầu và thực hiện giám định…. Xác định rõ cơ chế đánh giá kết luận giám định, bảo đảm đúng đắn, khách quan để làm căn cứ giải quyết vụ việc” thể hiện trong Nghị quyết số 49- NQ/TW của Bộ Chính trị; đồng thời để khắc phục những tồn tại, vướng mắc trong các quy định hiện hành, tham khảo kinh nghiệm pháp luật một số nước, giám định tư pháp nói chung, giám định tư pháp trong các vụ án về tham nhũng nói riêng cần được đổi mới, nâng cao chất lượng, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm về tham nhũng, cụ thể như sau:
Tiếp tục khẩn trương hoàn thiện chế định giám định tư pháp phục vụ phòng chống tham nhũng, trong đó quy định rõ trách nhiệm có tính bắt buộc và chế tài xử lý nghiêm đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm giám định từ chối, né tránh, chậm thực hiện giám định hoặc kết luận giám định thiếu rõ ràng, kết luận giám định sai.
Cần sớm có cơ chế làm rõ trách nhiệm của từng cơ quan điều tra, kiểm sát, tòa án và các Bộ, ngành có liên quan trong trưng cầu, thực hiện giám định cũng như đánh giá, sử dụng kết luận giám định, khắc phục và xử lý nghiêm minh tình trạng né tránh, bao che, tiêu cực trong quá trình giải quyết các vụ án nói chung, phòng, chống tội phạm về tham nhũng nói riêng.
Nghiên cứu, xây dựng Nghị định quy định chi tiết Luật giám định tư pháp về lĩnh vực giám định tài chính, ngân hàng, xây dựng…
Nghiên cứu, xác định nhu cầu giám định trong các lĩnh vực tài chính, kế toán, xây dựng và các lĩnh vực khác để sớm thành lập tổ chức giám định tư pháp công lập trong các lĩnh vực này. Khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện thành lập Văn phòng giám định tư pháp ở các lĩnh vực nêu trên (Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng…). Trong các lĩnh vực không hoặc chưa có tổ chức giám định tư pháp công lập thì cần xác định cơ quan đầu mối chủ trì điều phối hoạt động giám định tư pháp. Đối với các tổ chức giám định hiện có, cần được sắp xếp lại cho hợp lý và tinh gọn. Các giám định viên cần được nâng cao trình độ khoa học chuyên sâu và có chế độ đãi ngộ hợp lý. Các phương tiện kỹ thuật, máy móc phục vụ cho việc giám định cần được hiện đại hóa để đáp ứng kịp thời yêu cầu chính xác và nhanh chóng của công tác giám định.
Khẩn trương bảo đảm nguồn kinh phí chi trả chi phí giám định cũng như giải quyết vướng mắc về trình tự, thủ tục, hồ sơ thanh toán chi phí giám định tư pháp. Lập mục chi ngân sách riêng về kinh phí chi trả chi phí giám định tư pháp (không lấy từ kinh phí điều tra) cho các Cơ quan điều tra. Quy định cụ thể và phù hợp mức phí trả tiền giám định trong các lĩnh vực giám định về tài chính, ngân hàng, thuế, xây dựng… Khẩn trương xây dựng và ban hành quy chuẩn giám định tư pháp hoặc hướng dẫn áp dụng quy chuẩn chuyên môn ở các lĩnh vực cho hoạt động giám định tư pháp, trong đó xác định rõ quy trình, phương pháp, phương tiện giám định và đặc biệt là thời gian giám định đối với từng loại việc giám định ở các lĩnh vực giám định (các Bộ, ngành chủ quản).
Cần sớm ban hành quy định về căn cứ, cách thức trưng cầu các tổ chức, cá nhân có năng lực làm giám định và bảo đảm tính độc lập, khách quan của hoạt động giám định. Hướng dẫn về việc xem xét, đánh giá và sử dụng kết luận giám định trong hoạt động tố tụng để bảo đảm việc giải quyết các vụ án, nhất là án tham nhũng được chính xác, khách quan và đúng pháp luật.
6) Xây dựng Hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan thi hành dân sự trong việc thu hồi tài sản bị chiếm đoạt trong các vụ án tham nhũng, đặc biệt là các tội tham ô tài sản, nhận hối lộ
Thu hồi tài sản tham nhũng và tịch thu tài sản do tham nhũng mà có là hoạt động quan trọng và là thước đo hiệu quả của công tác đấu tranh chống tham nhũng. Trong thời gian qua, bên cạnh số tiền, tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án tham nhũng là rất lớn, gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, của nhân dân; việc thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, tham nhũng còn gặp rất nhiều khó khăn. Tỷ lệ tiền, tài sản thu hồi được rất nhỏ so với tổng số thiệt hại do các đối tượng chiếm đoạt. Số liệu thống kê cho thấy, tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng trên tổng số tài sản bị chiếm đoạt do hành vi tham nhũng gây ra chỉ khoảng dưới 10%.
Chế định thu hồi tài sản tham nhũng được quy định rõ tại Chương V của Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng mà Việt Nam là thành viên với các Điều từ 51 đến 59 với 26 yêu cầu mang tính bắt buộc và 14 yêu cầu mang tính tùy nghi, khuyến nghị. Do vậy, cần hoàn thiện chế định thu hồi tài sản tham nhũng trong Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật phòng, chống tham nhũng, trong đó tập trung vào 03 nhóm quy định:
Nhóm thứ nhất, những quy định chung mang tính nguyên tắc về thu hồi tài sản tham nhũng;
Nhóm thứ hai, những quy định chung về phòng ngừa, phát hiện việc chuyển tài sản tham nhũng;
Nhóm thứ ba, những quy định chung về các biện pháp thu hồi tài sản trực tiếp, cơ chế thủ tục và điều kiện hợp tác quốc tế trong tịch thu, trả lại và định đoạt tài sản tham nhũng.
Đối với Bộ luật hình sự năm 1999, cần quy định đầy đủ việc tịch thu tài sản do tham nhũng mà có mà người phạm tội đã cất giấu, che đậy, chuyển hình thức sở hữu như chuyển cho người thân, hoạt động rửa tiền, mua sắm các phương tiện vật chất có giá trị khác. Quy định bắt buộc trong Mục các tội phạm về tham nhũng phải có hình phạt bổ sung thu hồi phần tài sản phạm tội mà có, đồng thời liên đới chịu trách nhiệm vật chất về thiệt hại của Nhà nước do hành vi phạm tội gây ra
Trong Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi), cần quy định cụ thể về trình tự, thủ tục, thẩm quyền thu hồi tài sản tham nhũng, phát huy được trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong quá trình phát hiện, thu hồi tài sản tham nhũng. Quy định rõ trong các vụ án tham nhũng phải cho phép áp dụng biện pháp kê biên tài sản ngay từ khi có đủ căn cứ khởi tố bị can về hành vi tham nhũng để tránh việc “đánh tháo, tẩu tán” tài sản do tham nhũng được mà có.
Cần bổ sung, quy định đầy đủ về chế định thu hồi tài sản tham nhũng vào Luật phòng chống tham nhũng, quy định về trách nhiệm của cơ quan quản lý, chủ quản trong việc phối hợp với cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối tượng tẩu tán tài sản. Luật tương trợ tư pháp cần bổ sung chế định thu hồi tài sản và xác định rõ vấn đề thu hồi tài sản phạm tội thuộc phạm vi tương trợ tư pháp về hình sự. Xác lập được cơ chế phối hợp trong việc thực hiện thu hồi tài sản tham nhũng có yếu tố nước ngoài. Bổ sung vào Bộ luật tố tụng dân sự quy định chấp nhận thi hành phần dân sự trong phán quyết hình sự của Tòa án hình sự nước ngoài.
Chính phủ cần có quy định cụ thể để kiểm soát được tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức và bắt buộc mọi giao dịch lớn phải thông qua hệ thống ngân hàng. Đối với việc kê khai tài khoản ở nước ngoài, cần bổ sung quy định về việc xác định số dư tài khoản ở nước ngoài; bổ sung chế tài giám sát chặt chẽ việc thực hiện kê khai, minh bạch tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai; bổ sung quy định về kiểm soát thu nhập đối với cán bộ, công chức có chức vụ, quyền hạn; nghiên cứu, đề xuất xây dựng quy định kiểm tra, giám sát tài khoản người trong gia đình hoặc cộng sự có liên quan tới cá nhân đang hoặc đã giữ chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước.
Cần quy định cụ thể về thẩm quyền, trình tự, thủ tục hợp tác quốc tế trong việc thực hiện ủy thác hoặc lệnh của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài về xác minh, phong tỏa, thu giữ, tịch thu tài sản tham nhũng có nguồn gốc từ nước ngoài. Theo đó, cơ quan chức năng của Việt Nam theo nguyên tắc có đi có lại, có quyền yêu cầu nước ngoài xác minh, phong tỏa tài sản có nguồn gốc tham nhũng từ Việt Nam để thu hồi.
7) Hợp tác quốc tế trong đấu tranh, xử lý các vụ án tham nhũng, tham ô, hối lộ có yếu tố nước ngoài (nguồn vốn từ nước ngoài và người nước ngoài cùng phạm tội)
Trong điều kiện đất nước hội nhập quốc tếngày càng sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, trong đó có đấu tranh phòng, chống tham nhũng, để đấu tranh phòng, chống tội phạm có tính quốc tế đạt hiệu quả cao thì nhu cầu hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này trở thành vấn đề mang tính tất yếu, phù hợp với xu thế chung của thời đại. Hợp tác quốc tế, giúp các cơ quan tiến hành tố tụng có thể phát hiện tội phạm về tham nhũng qua các kênh thông tin của các cơ quan, tổ chức chống tội phạm quốc tế, nhờ đó có thể nhanh chóng khám phá các tổ chức tội phạm xuyên quốc gia. Hợp tác quốc tế cũng tạo ra cơ chế hợp tác trong việc phát hiện, điều tra, xét xử các vụ án tham nhũng mang tính quốc tế, giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng của nước ta tiết kiệm được kinh phí chi cho hoạt động tố tụng mà còn tạo điều kiện để mở rộng điều tra các vụ án tham nhũng phức tạp nhằm xử lý triệt để đối với loại tội phạm này. Đồng thời tạo ra cơ hội cho các cơ quan tư pháp của Việt Nam hoà nhập, học hỏi kinh nghiệm của các nước khác về công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Do vậy, trong thời gian tới, để hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự có hiệu quả, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Đẩy mạnh, tăng cường, chủ động hội nhập quốc tế trong lĩnh vực phòng, chống tham nhũng. Tăng cường tương trợ tư pháp, nhất là tư pháp hình sự để xử lý hành vi tham nhũng có yếu tố nước ngoài và thu hồi tài sản tham nhũng. Triển khai đầy đủ, có hiệu quả Kế hoạch thực hiện Công ước và Quy chế phối hợp thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng. Tổ chức nghiên cứu, học tập, trao đổi để tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước và các tổ chức quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng như nghiên cứu các quy định của pháp luật về cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động và các biện pháp được áp dụng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm về tham nhũng của các nước. Trên cơ sở đó tìm ra những bài học kinh nghiệm để vận dụng sửa đổi, bổ sung khung pháp lý về pháp luật phòng chống tham nhũng của Việt Nam nhằm đảm bảo sự phù hợp với pháp luật quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng và đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc. Tăng cường hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng, tham gia, ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp song phương trong lĩnh vực hình sự có nội dung thu hồi tài sản tham nhũng và dẫn độ tội phạm giữa Việt Nam với các nước nhằm tạo cơ sở pháp lý, cơ chế phối hợp trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng có yếu tố nước ngoài. Khẩn trương đàm phán, ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự với các nước có nhiều người Việt Nam sinh sống như Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Cộng hòa Liên bang Đức, Cộng hòa Pháp,... đối với những nước mà Nhà nước ta đã ký Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự, cần nghiên cứu đề xuất để kịp thời sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới ở Việt Nam. Tăng cường hợp tác quốc tế với các quốc gia thường xuyên phát sinh nhu cầu tương trợ tư pháp nhưng chưa ký kết Hiệp định để sớm tạo sự đồng thuận chung giữa hai nước; đẩy mạnh trao đổi, cung cấp thông tin, chứng cứ, tài liệu để phát hiện, xử lý tội phạm về tham nhũng; đồng thời tăng cường các hoạt động nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm và tương trợ tư pháp trong phòng, chống tham nhũng trong quá trình triển khai thực hiện nhằm đảm bảo các hoạt động hợp tác quốc tế phù hợp với đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta./.
TT