Qua công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự do Viện kiểm sát nhân dân địa phương báo cáo đề nghị kháng nghị Giám đốc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhận thấy trong thời gian gần đây các báo cáo đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm của các Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ngày càng được nâng cao cả về số lượng và chất lượng...
Viện kiểm sát nhân dân tối cao Kháng nghị giám đốc thẩm hủy bản án dân sự sơ thẩm và bản án phúc thẩm về “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”
Qua công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự do Viện kiểm sát nhân dân địa phương báo cáo đề nghị kháng nghị Giám đốc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhận thấy trong thời gian gần đây các báo cáo đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm của các Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ngày càng được nâng cao cả về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, có một số báo cáo đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm của một số địa phương chưa nêu được vi phạm cơ bản của bản án, nội dung đề nghị chưa tập trung, chưa rõ. Viện kiểm sát nhân dân tối cao rút kinh nghiệm về việc giải quyết một vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” để Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố rút kinh nghiệm, nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng kiểm sát giải quyết các vụ, việc dân sự và báo cáo đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm. Trang tin điện tử VKSND tối cao trích đăng để các bạn thạm khảo.
Nội dung vụ án:Cuối năm 2004, ông Nguyễn Đức chuyển nhượng 300m2 đất vườn tạp thuộc thửa 202, tờ bản đồ số 09, tọa lạc tại khu dân cư số 19, thị trấn Q (có nguồn gốc của cha mẹ ông Đức để lại, chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) cho anh Vũ Huy với giá 49.000.000đ, thuế chuyển nhượng và thuế trước bạ do bên bán chịu. Hai bên chưa làm xong thủ tục mua bán thì anh Huy chuyển nhượng cho anh Trần Văn Cơi100m2 trong 300m2 đất mà anh đã mua. Đến ngày 20/7/2005, Hai bên lập hợp đồng mua bán đất ở, theo đó ông Đức bán cho anh Huy 200m2 và bán cho anh Cơi100m2, nhưng không được cơ quan có thẩm quyền chấp nhận. Sau đó hai bên lập hợp đồng chuyển nhượng đất thổ canh ghi ngày 04/02/2005, và được Ủy ban nhân dân huyện cho phép ông Đức chuyển nhượng cho anh Huy 200m2 vườn tạp và anh Cơi 100m2 vườn tạp. Vì không hoàn tất thủ tục nên tháng 12 năm 2007, anh Cơi trả lại đất cho anh Huy, lấy lại tiền. Do mâu thuẫn về phí chuyển mục đích sử dụng đất nên anh Huy khởi kiện yêu cầu ông Đức thực hiện hợp đồng.
Quá trình giải quyết vụ án.
- Tại Bản án dân sự sơ thẩmsố: 10/2008/DSST ngày 17/6/2009, Tòa án nhân dân huyện đã hủy hợp đồng mua bán đất thổ cư giữa ông Đức và anh Huy. Buộc anh Huy trả lại cho ông Đức 300m2. Ông Đức trả lại cho anh Huy số tiền đã nhận là 49.000.000 và lãi suất là 26.630.191đ (từ ngày 06/02/2005 - 17/6/2009). Tổng cộng là 75.630.191đ.
- Tại Bản án dân sự phúc thẩm số: 36/2009/DSPT ngày 07/11/2009, Tòa án nhân dân tỉnh, đã sửa án sơ thẩm. Chấp nhận việc thỏa thuận của đương sự tiếp tục thực hiện hợp đồng mua bán đất ở giữa ông Đức và anh Huy lập ngày 20/7/2005. Hai bên có nghĩa vụ hoàn tất thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo pháp luật quy định. Hủy hợp đồng mua bán đất nông nghiệp đề ngày 04/02/2005 giữa ông Đức và anh Huy vì hợp đồng vô hiệu.
- Sau khi có bản án phúc thẩm, ngày 28/9/2012, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh có báo cáo đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm với nội dung: Anh Huy thỏa thuận mua đất thổ cư của ông Đức, nhưng ông Đức chuyển nhượng đất nông nghiệp. Do đó, hợp đồng chuyển nhượng đất nông nghiệp ngày 04/02/2005 là vô hiệu. Tại phiên tòa phúc thẩm hai bên xin tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng đất ở, được Tòa án chấp nhận, hai bên phải hoàn tất thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nhưng hợp đồng chuyển nhượng ngày 20/7/2005 diện tích đất ở là 200m2 không phải là 300m2 như thỏa thuận ban đầu, cùng ngày 20/7/2005 còn một bản hợp đồng giữa ông Đức và anh Cơivề việc mua bán 100m2 trong 300m2 đất nói trên, cấp phúc thẩm không xem xét. Như vậy, cấp phúc thẩm quyết định không phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án, do đó không thể thi hành bản án phúc thẩm được. Bản án sơ thẩm, đường lối giải quyết là đúng, nhưng không phù hợp với giai đoạn hiện nay (về lãi suất và thời điểm tính lãi suất). Đề nghị kháng nghị hủy bản án sơ thẩm, phúc thẩm trên.
- Tại Quyết định số: 143/QĐ/KNGĐT-V5 ngày 07/11/2012, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án phúc thẩm trên với nội dung: Có cơ sở xác định đất chuyển nhượng giữa ông Đức với anh Huy và anh Cơilà đất vườn tạp (đất nông nghiệp) không phải là đất thổ cư. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên hủy hợp đồng mua bán đất thổ cư, buộc bên mua trả lại đất, bên bán trả lại tiền, mà không xem xét đến hợp đồng chuyển nhượng đất thổ canh ghi ngày 04/02/2005 được Ủy ban nhân dân huyện chấp nhận; mặt khác, khi xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thổ cư giữa ông Đức với anh Huy vô hiệu nhưng không giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu là không đúng. Tòa án cấp phúc thẩm hủy hợp đồng mua bán đất nông nghiệp đề ngày 04/02/2005 giữa ông Đức và anh Huy vì hợp đồng vô hiệu, song lại chấp nhận để hai bên đương sự tiếp tục thực hiện hợp đồng mua bán 200m2 đất ở giữa ông Đức với anh Huy đã thiết lập ngày 20/7/2005, trong khi đất chuyển nhượng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và là đất vườn tạp (đất nông nghiệp). Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét đến cùng ngày 20/7/2005 giữa ông Đức với anh Cơithiết lập hợp đồng mua bán 100m2 đất ở trong 300m2 đất nói trên cũng đều là không đúng, không bảo đảm quyền lợi cho các bên đương sự. Tòa án hai cấp không đưa bà Nguyễn Thị Lan(vợ ông Đức), chị Đào Thị Hoa (vợ anh Huy), anh Trần Văn Cơivà vợ chị Phan Thị Hồng tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền và nghĩa vụ liên quan là thiếu sót.
Tại quyết định số 37/2012/DS-GĐT ngày 18/01/2013, Hội đồng giám đốc Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao đã chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hủy bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm nêu trên giao hồ sơ về cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục chung.
Những vi phạm của bản án sơ thẩm và phúc thẩm mà Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh không phát hiện ra để báo cáo đề nghị kháng nghị, cần rút kinh nghiệm.
Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ đất tranh chấp có thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông Đức hay không, để xác định ông Đức có được quyền chuyển nhượng cho anh Huy hay không. Mặt khác, khi tuyên hủy hợp đồng mua bán đất thổ cư của ông Đức và anh Huy do vô hiệu, Tòa án cấp sơ thẩm buộc ông Đức trả lại cho anh Huy tiền gốc và lãi suất ngân hàng của số tiền gốc không đúng. Lẽ ra trong trường hợp này Tòa án cấp sơ thẩm buộc các bên phải trả lại cho nhau những gì đã nhận (không tính lãi suất) và xác định lỗi của mỗi bên, bên có lỗi phải bồi thường. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét hợp đồng chuyển nhượng đất thổ canh ghi ngày 04/02/2005 được Ủy ban nhân dân huyện chấp nhận. Thế nhưng, báo cáo thỉnh thị lại cho rằng bản án sơ thẩm đường lối giải quyết là đúng, nhưng không phù hợp với giai đoạn hiện nay (về lãi suất và thời điểm tính lãi suất) là không đúng.
Tòa án cấp phúc thẩm cũng chưa làm rõ đất tranh chấp có thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông Đức hay không. Mặt khác, Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận sự thỏa thuận giữa ông Đức và anh Huy tiếp tục thực hiện việc chuyển nhượng 200m2 đất ở thiết lập ngày 20/7/2005 là không đúng. Vì diện tích đất trên chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và là đất vườn tạp (đất nông nghiệp). Thế nhưng báo cáo thỉnh thị chỉ đề cập Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét cùng ngày 20/7/2005 giữa ông Đức với anh Cơi thiết lập hợp đồng mua bán 100m2 đất ở trong 300m2 đất là chưa đầy đủ.
Tòa án hai cấp không đưa bà Nguyễn Thị Lan (vợ ông Đức), chị Đào Thanh Hoa (vợ anh Huy), anh Trần Văn Cơi và vợ chị Phan Thị Hồng tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền và nghĩa vụ liên quan, nhưng báo cáo thỉnh thị không đề cập là thiếu sót.
Từ vụ án nêu trên, Vụ kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự thông báo đến các Viện kiểm sát địa phương, nghiên cứu tham khảo, rút kinh nghiệm để nâng cao hơn nữa chất lượng kiểm sát giải quyết các vụ, việc dân sự./.
Thái Hưng