VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỐI CAO
Số: /TTr-VKSTC-V8
DỰ THẢO
(trình QH 5.2014)
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà Nội, ngày tháng năm 2014
|
TỜ TRÌNH
VỀ DỰ ÁN LUẬT TỔ CHỨC VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN (SỬA ĐỔI)
Thực hiện Nghị quyết số 45/2013/QH13 ngày 18/6/2013 của Quốc hội về điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII năm 2013 và Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2014, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành hữu quan soạn thảo dự án Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi). Viện kiểm sát nhân dân tối cao kính trình Quốc hội dự án Luật này với những nội dung cơ bản như sau:
I. SỰ CẦN THIẾT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT TỔ CHỨC VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN NĂM 2002
1. Qua hơn 10 năm thi hành Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND, Pháp lệnh tổ chức Viện kiểm sát quân sự năm 2002, VKSND đã khẳng định vai trò là một thiết chế hữu hiệu trong việc bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh với các loại tội phạm, trở thành chỗ dựa đáng tin cậy của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người. Mặc dù vậy, thực tiễn thi hành Luật và các Pháp lệnh còn cho thấy một số vấn đề vướng mắc, bất cập, chủ yếu là: Cơ chế bảo đảm cho VKSND thực hiện quyền hạn, trách nhiệm chưa đầy đủ và hiệu quả; Chế độ pháp lý của Kiểm sát viên chưa thực sự phù hợp với trách nhiệm, quyền hạn; Chế độ chính sách bảo đảm hoạt động của VKSND chưa đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng; Kỹ thuật lập pháp đã có phần lạc hậu so với hiện nay…
2.Tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Hiến pháp năm 2013. Hiến pháp năm 2013 đã có những nội dung mới quan trọng về chế định VKSND; đồng thời, bổ sung, làm rõ hơn những nguyên tắc mới, tiến bộ của tố tụng tư pháp liên quan trực tiếp đến hoạt động của VKSND, đòi hỏi phải được cụ thể hóa trong Luật tổ chức VKSND (sửa đổi).
3. Trước yêu cầu phát triển và bảo vệ đất nước trong tình hình mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, để thực hiện mục tiêu cải cách tư pháp là “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”, cần sửa đổi Luật tổ chức VKSND để tạo cơ sở pháp lý đổi mới toàn diện về: hệ thống tổ chức, các nguyên tắc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, chuẩn hóa các chức danh tư pháp và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường sự giám sát bên trong và bên ngoài hệ thống, nhất là sự giám sát của cơ quan dân cử...
4. Sửa đổi Luật để đáp ứng yêu cầu tăng cường hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, nâng cao vai trò, vị trí của VKSND tương đồng với Viện công tố/Viện kiểm sát các nước trên thế giới; tiếp thu hợp lý kinh nghiệm quốc tế đã thừa nhận và khẳng định như: vai trò của công tố trong điều tra và kiểm soát quyền lực, bảo vệ quyền con người, tham gia vào các quan hệ phi hình sự để bảo vệ lợi ích nhà nước, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Từ những lý do nêu trên, việc sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức VKSND là khách quan và cần thiết.
II. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO, PHẠM VI SỬA ĐỔI LUẬT
1. Mục tiêu
Việc xây dựng Luật tổ chức VKSND (sửa đổi) nhằm cụ thể hóa các quy định liên quan đến VKSND trong Hiến pháp năm 2013; tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của VKSND theo yêu cầu cải cách tư pháp; nâng cao hiệu quả đấu tranh với tội phạm và vi phạm pháp luật trong tình hình mới.
2. Quan điểm chỉ đạo
Việc xây dựng Luật tổ chức VKSND (sửa đổi) cần quán triệt các quan điểm chỉ đạo sau đây:
Một là, thể chế hóa đầy đủ, đúng đắn, toàn diện các chủ trương cải cách tư pháp của Đảng liên quan đến VKSND, thể hiện trong Nghị quyết số 49-NQ/TW, Kết luận số 79-KL/TW, Kết luận số 92-KL/TW và Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng.
Hai là, xây dựng Luật tổ chức VKSND (sửa đổi) phải trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của VKSND; bảo đảm kế thừa truyền thống, kinh nghiệm của cơ quan công tố/kiểm sát của Nhà nước ta trong hơn 60 năm qua; khắc phục những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn thi hành Hiến pháp và Luật.
Ba là, xây dựng Luật tổ chức VKSND (sửa đổi) phải xuất phát từ đặc điểm cụ thể về chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của nước ta, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan dân cử và nhân dân; xây dựng hệ thống VKSND tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.
Bốn là, xây dựng Luật tổ chức VKSND (sửa đổi) phải trên cơ sở Hiến pháp, đồng bộ, thống nhất với các đạo luật hiện hành, phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
Năm là, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố/kiểm sát các nước trên thế giới và trong khu vực, phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội và truyền thống văn hóa, truyền thống pháp lý của nước ta.
3. Phạm vi sửa đổi
Để thực hiện mục tiêu, quán triệt các quan điểm chỉ đạo, phạm vi sửa đổi Luật tổ chức VKSND lần này được xác định là sửa đổi căn bản, toàn diện, thay thế Luật tổ chức VKSND năm 2002, Pháp lệnh tổ chức Viện kiểm sát quân sự năm 2002, Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND năm 2002 (sửa đổi năm 2011).
III. NHỮNG HOẠT ĐỘNG CHÍNH TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT
1. Thành lập và kiện toàn Ban soạn thảo, Tổ biên tập. Đến nay, đã tổ chức 04 phiên họp Ban soạn thảo, nhiều lần xin ý kiến bằng văn bản. Ban soạn thảo làm việc theo chế độ thảo luận tập thể và quyết định theo đa số;
2. Tổng kết thực tiễn thi hành Luật tổ chức VKSND và các Pháp lệnh trong toàn ngành Kiểm sát dưới nhiều hình thức (tổ chức hội nghị, khảo sát…);
3. Nghiên cứu các nghị quyết, văn kiện của Đảng về cải cách tư pháp nói chung, tổ chức và hoạt động của VKSND nói riêng; Rà soát các văn bản pháp luật, điều ước quốc tế liên quan đến tổ chức và hoạt động của VKSND;
4. Biên dịch và tham khảo Luật về Viện công tố/Viện kiểm sát 09 nước (Trung Quốc, Nga, Hungary, Ucraina, Pháp, Đức, Anh, Hàn Quốc, Nhật Bản); tổ chức các đoàn công tác ra nước ngoài nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm;
5. Nghiên cứu nhiều đề án, đề tài khoa học cấp nhà nước, cấp bộ phục vụ cho việc xây dựng Luật;
6. Tổ chức nhiều hội thảo trong nước và quốc tế, nhiều tọa đàm bàn về định hướng sửa đổi Luật, về từng chương, từng chế định cụ thể trong dự thảo Luật với sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn có kinh nghiệm;
7. Lấy ý kiến toàn ngành Kiểm sát nhân dân nhiều lần về dự án Luật thông qua các hình thức: thảo luận ở từng đơn vị, theo cụm địa phương; góp ý trực tiếp hoặc qua các phương tiện thông tin, tuyên truyền; thi sáng kiến…;
8. Rà soát các văn bản cần sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới để triển khai thực hiện Luật;
9. Xin ý kiến Chính phủ, các bộ, ngành hữu quan và các thành viên Ban soạn thảo về dự án Luật. Đối với những vấn đề có ý kiến khác nhau, dự thảo Luật thể hiện theo ý kiến của đa số.
10. Báo cáo Ủy ban Tư pháp, Ủy ban thường vụ Quốc hội về dự án Luật và tiếp thu ý kiến để hoàn chỉnh.
IV. NỘI DUNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ MỚI CỦA DỰ THẢO LUẬT
1. Nội dung của dự thảo Luật
Dự thảo Luật tổ chức VKSND (sửa đổi) có kết cấu gồm 07 chương, 13 mục, 107 điều. So với Luật tổ chức VKSND hiện hành, dự thảo giảm 04 chương, tăng thêm 57 điều luật. Trong đó, sửa đổi 73 điều, bổ sung 34 điều mới, không có điều nào được giữ nguyên. Dự thảo Luật đã thu hút Luật tổ chức VKSND năm 2002, Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND năm 2002 (sửa đổi năm 2011) và Pháp lệnh tổ chức Viện kiểm sát quân sự năm 2002.
Nội dung cụ thể của dự án Luật gồm:
1.1. Chương I: Những quy định chung
Chương I gồm có 10 điều (Từ Điều 01 đến Điều 10), quy định về phạm vi điều chỉnh của Luật; chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, các lĩnh vực công tác, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động; cơ chế giám sát, trách nhiệm phối hợp; ngày truyền thống, phù hiệu của ngành KSND.
1.2. Chương II: Công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND
Chương II gồm có 30 điều (Từ Điều 11 đến Điều 40), được chia thành 09 mục, quy định về trách nhiệm, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong từng công tác thực hiện chức năng, gồm: thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc: tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, điều tra, xét xử hình sự; điều tra vụ án hình sự; kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự, việc giải quyết các vụ việc dân sự, vụ án hành chính và những việc khác theo quy định của pháp luật, thi hành án dân sự, hành chính; giải quyết và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp; tương trợ tư pháp hình sự; thống kê tội phạm và các công tác khác.
1.3. Chương III: Tổ chức của VKSND
Chương III gồm có 10 điều (Từ Điều 41 đến Điều 50), quy định về: hệ thống VKSND; phạm vi thẩm quyền, cơ cấu tổ chức, cơ cấu cán bộ của từng cấp Viện kiểm sát; vị trí, vai trò, thành phần và cơ chế làm việc của Ủy ban kiểm sát; thẩm quyền quyết định việc thành lập, chấm dứt hoạt động VKSND các cấp.
1.4. Chương IV: Cán bộ, công chức, viên chức và nhân viên của VKSND
Chương IV gồm có 32 điều (Từ Điều 51 đến Điều 82), được chia thành 04 mục, quy định những vấn đề chung về cán bộ, công chức, viên chức và nhân viên của VKSND (các loại chức danh; trách nhiệm chung; điều động, luân chuyển, biệt phái; tuổi nghỉ hưu); quy định về vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng VKSND tối cao, Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND các cấp; về tiêu chuẩn, ngạch, bậc, nhiệm kỳ, nhiệm vụ, quyền hạn, lời tuyên thệ, miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên, các Hội đồng xét tuyển, thi tuyển Kiểm sát viên; các chức danh tư pháp khác.
1.5. Chương V: Viện kiểm sát quân sự
Chương V gồm có 14 điều (Từ Điều 83 đến Điều 96), quy định những vấn đề có tính đặc thù trong tổ chức và hoạt động của VKSQS.
1.6. Về Chương VI: Bảo đảm hoạt động của VKSND
Chương VI gồm có 09 điều (Từ Điều 97 đến Điều 105), quy định các điều kiện bảo đảm cho hoạt động của VKSND và cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên của VKSND (gồm: tổng biên chế, số lượng, cơ cấu Kiểm sát viên; kinh phí và cơ sở vật chất; tiền lương, phụ cấp; trang phục, giấy chứng minh, giấy chứng nhận; chế độ đào tạo, bồi dưỡng; chế độ đối với người nghỉ hưu, chuyển ngành, thôi phục vụ trong ngành KSND; khen thưởng, xử lý vi phạm).
1.7. Chương VII: Điều khoản thi hành
Chương VII gồm có 02 điều (Điều 106, Điều 107), quy định về hiệu lực thi hành của Luật và trách nhiệm hướng dẫn thi hành Luật.
2. Những nội dung mới cơ bản của dự thảo Luật
Dự thảo luật đã thể chế hóa các chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận, cơ sở pháp lý cho hoạt động của ngành KSND, tháo gỡ nhiều khó khăn của thực tiễn, cụ thể:
2.1. Dự thảo Luật đã làm rõ vị trí, vai trò của VKSND trong mối quan hệ phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước. Với chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, VKSND được xác định là thiết chế kiểm soát hoạt động tư pháp, có trách nhiệm phối hợp, đồng thời, kiểm sát chặt chẽ, thường xuyên đối với cơ quan điều tra, tòa án, cơ quan thi hành án và các cơ quan khác trong việc thực hiện hoạt động tư pháp; mặt khác VKSND cũng chịu sự kiểm soát của các cơ quan tư pháp (Khoản 1 Điều 2; Khoản 1 Điều 3; các điều 4, 7; Khoản 3 Điều 8).
Đồng thời, là cơ quan thực hiện quyền lực Nhà nước, VKSND còn phải chịu sự giám sát chặt chẽ của cơ quan dân cử và nhân dân. Dự thảo Luật đã làm rõ cơ chế giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân đối với VKSND trong điều kiện tổ chức VKSND 4 cấp; bổ sung quy định về quyền giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với VKSND (Điều 9).
2.2. Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, VKSND có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, Dự thảo Luật đã xác định rõ các nhiệm vụ, quyền hạn cơ bản của VKSND trong phát hiện, xử lý vi phạm trong hoạt động tư pháp (các điều 13, 15, 16, 18, 19, 20, 21, 23, 27, 30, 33); trách nhiệm quyết định việc áp dụng các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân (các khoản 4, 6 Điều 15); tăng cường vai trò của VKSND trong các lĩnh vực phi hình sự, nhằm bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần (các khoản 1, 2 Điều 27); quy định rõ VKSND có trách nhiệm giải quyết và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động tư pháp (các điều 31, 32, 33); trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với hoạt động của VKSND (các khoản 1, 2 Điều 8).
2.3. Dự thảo Luật đã cụ thể hóa cácnguyên tắc tư pháp tiến bộ được quy định trong Hiến pháp 2013 có liên quan trực tiếp đến hoạt động của VKSND như nguyên tắc suy đoán vô tội, tranh tụng trong xét xử, nhờ người bào chữa, xét xử kịp thời, xử lý nghiêm minh người vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp… Theo đó, đã sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm tăng cường vai trò của công tố ngay từ khi tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố (các điều 11, 12, 13); tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra (các điều 14, 15, 16, 20); xác định cụ thể thẩm quyền, trách nhiệm của Cơ quan điều tra VKSND (Điều 21); xác định trách nhiệm tranh tụng tại phiên tòa, phân định rõ trách nhiệm của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử (Khoản 2 Điều 18), đổi mới tiêu chuẩn bổ nhiệm Kiểm sát viên (các điều 70, 71, 72, 73).
2.4. Cụ thể hóa các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của VKSND trong Hiến pháp, dự thảo Luật đã làm rõ nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành (khoản 1 Điều 6); xác định rõ vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng VKSND tối cao và Viện trưởng VKSND các cấp khác (các điều 56, 57, 59, 60, 61); điều chỉnh quy định về vai trò của Ủy ban kiểm sát bảo đảm phù hợp với thẩm quyền và trách nhiệm tố tụng của Viện trưởng VKSND trong hoạt động tư pháp (các điều 44, 46, 48, 86, 89); làm rõ mối quan hệ giữa Kiểm sát viên và Viện trưởng trong việc thực hiện nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, bổ sung quy định về nhiệm vụ của từng ngạch Kiểm sát viên, bảo đảm phân định rõ thẩm quyền hành chính với thẩm quyền tư pháp (khoản 3 Điều 6, Điều 68).
2.5. Về chức năng, nhiệm vụ, dự thảo Luật đã quy định rõ đối tượng, nội dung, phạm vi, mục đích của từng chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, xác định rõ các mặt công tác và thẩm quyền cơ bản của VKSND trong từng lĩnh vực, đặt nền tảng cho việc hình thành cơ sở lý luận về chức năng của VKSND, bảo đảm thống nhất nhận thức và hoạt động có hiệu quả trên thực tế (Khoản 1 Điều 2; Khoản 1 Điều 3; các mục 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 Chương II);bổ sung quy định về các công tác khác VKSND đang thực hiện mà chưa được Luật quy định, như: hợp tác quốc tế và tương trợ tư pháp; thống kê tội phạm, thống kê hình sự; nghiên cứu khoa học; xây dựng pháp luật; đào tạo, bồi dưỡng; thông tin, tuyên truyền, pháp luật (Mục 9 Chương II); quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị của VKSND (Điều 5).
2.6. Về tổ chức bộ máy, dự thảo Luật quy định hệ thống VKSND gồm 4 cấp như Kết luận 79-KL/TW; đối với VKSND cấp thứ tư, đã thể hiện thành 2 phương án là “VKSND khu vực” hoặc “VKSND cấp huyện” theo Kết luận 92-KL/TW (Điều 41); Bổ sung các quy định về VKSND cấp cao phù hợp với Tòa án nhân dân cấp cao (Khoản 2 Điều 42; các điều 45, 46, 59, 62); kiện toàn tổ chức bộ máy ở VKSND khu vực (hoặc cấp huyện) một cách linh hoạt và phù hợp với quy mô, tính chất địa bàn (Khoản 1 Điều 49); Bổ sung quy định về việc thành lập và chấm dứt hoạt động của VKSND các cấp (Khoản 1 Điều 50).
2.7. Về các chức danh tư pháp, dự thảo Luật đã quy định rõ cơ cấu các chức danh tư pháp và chức danh khác của từng cấp Viện kiểm sát (Khoản 2 các điều 43, 45, 47, 49, 88, 91; Khoản 3 Điều 85); đề xuất quy định Kiểm sát viên được bổ nhiệm để thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hiện một sốnhiệm vụ đặc thù theo sự phân công của Viện trưởng để tạo tính chủ động, linh hoạt trong bố trí, sử dụng cán bộ; rèn luyện đội ngũ Kiểm sát viên, đồng thời nâng cao chất lượng các khâu công tác (Phương án 2 Điều 63); tăng thời hạn bổ nhiệm Kiểm sát viên, đổi mới tiêu chuẩn bổ nhiệm, kết hợp xét tuyển và thi tuyển các ngạch Kiểm sát viên (trừ Kiểm sát viên VKSND tối cao) nhằm thực hiện chủ trương “tăng thời hạn bổ nhiệm chức danh tư pháp…”, “nghiên cứu thực hiện cơ chế thi tuyển để chọn người bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp”, khắc phục những bất cập trong việc tổ chức hội đồng tuyển chọn, phát huy năng lực của cán bộ, Kiểm sát viên nhất là ở cấp cơ sở (các điều 65, 66, 70, 71, 72, 73, 76, 77); tổ chức 04 ngạch Kiểm sát viên nhằm khắc phục những bất cập trong ủy quyền công tố và chính sách cán bộ; quy định tuổi làm việc đối với Kiểm sát viên VKSND tối cao theo tinh thần Kết luận 92-KL/TW của Bộ Chính trị (Điều 55); bổ sung quy định về lời tuyên thệ của Kiểm sát viên (Điều 67); quy định về Kiểm tra viên và Trợ lý điều tra nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự, tạo nguồn bổ sung cho lực lượng Kiểm sát viên, Điều tra viên (các điều 80, 82).
2.8. Về bảo đảm hoạt động của VKSND: Dự thảo Luật đã bổ sung quy định về ngày truyền thống, phù hiệu của ngành KSND (Điều 10); giao cho Viện trưởng VKSND tối cao thẩm quyền quyết định biên chế; số lượng và cơ cấu kiểm sát viên của các cấp Viện kiểm sát để bảo đảm tính chủ động, linh hoạt trong việc bố trí, sắp xếp cán bộ (Điều 97); quy định Kiểm sát viên, Điều tra viên, Kiểm tra viên, Trợ lý điều tra có thang, bậc lương riêng, quy định các chế độ phụ cấp, các hình thức khen thưởng đặc thù của ngành Kiểm sát, chế độ đối với người nghỉ hưu, chuyển ngành, thôi phục vụ trong ngành KSND nhằm thực hiện chủ trương “có chế độ, chính sách tiền lương, khen thưởng phù hợp với lao động của cán bộ tư pháp” (các điều 99, 100, 103, 104); bổ sung quy định về chính sách cho sinh viên, học viên các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của Ngành Kiểm sát, chính sách đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ VKSND là người dân tộc ít người và ở các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa nhằm thể chế hóa chủ trương “có cơ chế thu hút, tuyển chọn những người có tâm huyết, đủ đức, tài vào làm việc ở các cơ quan tư pháp”(các khoản 2, 3 Điều 102); xác định rõ thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội và Viện trưởng VKSND tối cao trong việc quy định, cấp phát trang phục, giấy chứng minh, giấy chứng nhận các chức danh tư pháp (Điều 101);sửa đổi cơ chế trình kinh phí hoạt động của VKSQS, theo hướng Viện trưởng VKSQSTW lập dự toán báo cáo Bộ Quốc phòng đề nghị Chính phủ trình Quốc hội quyết định, không phải phối hợp với VKSND tối cao lập dự toán như hiện nay cho phù hợp với thực tiễn (Khoản 2 Điều 96);bổ sung quy định thể chế hóa chủ trương “có cơ chế cho phép địa phương hỗ trợ kinh phí hoạt động cho cơ quan tư pháp từ khoản vượt thu ngân sách của địa phương” của Nghị quyết 49-NQ/TW, xác định những vấn đề nhà nước cần ưu tiên đầu tư cho ngành KSND nhằm bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động tư pháp (các khoản 1, 3 Điều 98).
2.9. Về kỹ thuật lập pháp, dự thảo Luật đã thu hút và quy định toàn diện các vấn đề cơ bản về tổ chức và hoạt động của VKSND, khắc phục tình trạng nhiều văn bản tản mạn, chồng chéo; quy định thẩm quyền cơ bản của VKSND trong từng lĩnh vực công tác, tránh trùng lặp với các luật về tố tụng, bảo đảm tính thống nhất, ổn định của hệ thống pháp luật (các mục 1, 2, 3, 6 Chương II).
V. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÒN CÓ Ý KIẾN KHÁC NHAU
1. Về đổi mới mô hình VKSND cấp huyện (Khoản 4 Điều 41 dự thảo Luật)
Dự thảo Luật xây dựng hai phương án mô hình VKSND cấp huyện như Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị để xin ý kiến Quốc hội, bao gồm: Phương án 1: tổ chức VKSND theo khu vực như Kết luận số 79-KL/TW; Phương án 2: tổ chức VKSND tương ứng với TAND sơ thẩm đặt tại các đơn vị hành chính cấp huyện. Về vấn đề này có hai loại ý kiến:
- Đa số ý kiến cho rằng: việc tổ chức VKSND cấp huyện như phương án 2 là phù hợp với yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND. Các lĩnh vực công tác của cấp kiểm sát này đòi hỏi mối quan hệ chặt chẽ với Cơ quan điều tra và cơ quan thi hành án, trong khi các cơ quan này vẫn giữ nguyên hệ thống tổ chức gắn liền với các đơn vị hành chính như hiện nay. Tổ chức VKSND cấp huyện là cơ sở quan trọng để thực hiện tốt yêu cầu của Đảng về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế công tố gắn với điều tra; bảo đảm yêu cầu xây dựng nền tư pháp gần dân, tạo điều kiện thuận lợi để người dân tiếp cận công lý, tiết kiệm thời gian và chi phí cho cả người dân, Nhà nước và xã hội.
- Một số ý kiến cho rằng: cần tổ chức VKSND theo khu vực để tăng cường tính độc lập của cơ quan tư pháp, tập trung nguồn lực (cơ sở vật chất và con người) cho công tác tư pháp, nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp.
Ban soạn thảo nhất trí với ý kiến của đa số và đã thể hiện tại Điều 41 dự thảo Luật.
2. Về vai trò của Ủy ban kiểm sát (các điều 44, 46, 48, 86, 89 dự thảo Luật)
Theo quy định hiện hành, Ủy ban kiểm sát có nhiệm vụ thảo luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan trọng về tổ chức và hoạt động của VKSND như phương hướng, chương trình, kế hoạch công tác hàng năm; dự án luật, pháp lệnh trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội; báo cáo của Viện trưởng VKSND trước cơ quan dân cử…, xem xét và quyết định những vụ án hình sự, dân sự, hành chính quan trọng. Về vấn đề này có hai loại ý kiến:
- Đa số ý kiến đề nghị: tiếp tục quy định Ủy ban kiểm sát có vai trò như hiện nay. Riêng đối với việc giải quyết án, Ủy ban kiểm sát có trách nhiệm thảo luận và cho ý kiến trước khi Viện trưởng quyết định. Thủ tục lấy ý kiến Ủy ban kiểm sát là bắt buộc, nhằm kết hợp nguyên tắc tập trung dân chủ với nguyên tắc tập trung thống nhất trong ngành, phát huy tác dụng tích cực của cơ chế Ủy ban kiểm sát trong thực tiễn hơn 10 năm qua, đồng thời, phù hợp với tư cách tiến hành tố tụng và nguyên tắc chịu trách nhiệm trong hoạt động tư pháp của Viện trưởng VKSND được xác định trong các luật tố tụng.
- Một số ý kiến đề nghị: tiếp tục quy định Ủy ban kiểm sát có vai trò thảo luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan trọng trong tổ chức và hoạt động của VKSND nhưng không quy định trong Luật vai trò của Ủy ban kiểm sát đối với việc giải quyết án để tạo quyền chủ động cho Viện trưởng.
Ban soạn thảo nhất trí với ý kiến của đa số và đã thể hiện tại các điều 44, 46, 48, 86, 89dự thảo Luật.
3. Về Kiểm sát viên
3.1. Về nhiệm vụ của Kiểm sát viên (Điều 63 dự thảo Luật)
Khoản 1 Điều 42 Luật tổ chức VKSND năm 2002 quy định: “Kiểm sát viên được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”.
Về vấn đề này có hai loại ý kiến:
- Đa số ý kiến đề nghị: Kiểm sát viên chỉ được bổ nhiệm để làm các công tác thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, để gắn với chức danh tư pháp, đề cao vai trò, trách nhiệm của chức danh Kiểm sát viên.
- Một số ý kiến đề nghị: ngoài các công tác thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên còn được bổ nhiệm để thực hiện cácnhiệm vụ đặc thù theo sự phân công của Viện trưởng, nhằm khắc phục những bất cập trong thực tiễn điều động, luân chuyển Kiểm sát viên, tạo tính chủ động, linh hoạt trong bố trí, sử dụng cán bộ, rèn luyện đội ngũ Kiểm sát viên, nâng cao chất lượng các lĩnh vực công tác của Viện kiểm sát. Những nhiệm vụ đặc thù gồm: tham mưu, tổng hợp, nghiên cứu, đào tạo, xây dựng và hướng dẫn thực thi pháp luật.
Ban soạn thảo nhất trí với ý kiến của đa số và đã thể hiện tại Điều 63 dự thảo Luật.
3.2. Về nhiệm kỳ của Kiểm sát viên (Điều 66 dự thảo Luật)
Theo quy định hiện hành, nhiệm kỳ của Kiểm sát viên là 05 năm kể từ ngày được bổ nhiệm.Về vấn đề này có hai loại ý kiến:
- Đa số ý kiến đề nghị: Kiểm sát viên VKSND tối cao được bổ nhiệm không thời hạn vì đây là các cán bộ có trình độ, kinh nghiệm, đã được sàng lọc qua nhiều ngạch, bậc Kiểm sát viên. Các Kiểm sát viên khác được bổ nhiệm lần đầu có thời hạn là 05 năm, trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc nâng ngạch thì thời hạn là 10 năm.
- Một số ý kiến đề nghị: tất cả các Kiểm sát viên được bổ nhiệm lần đầu đều có thời hạn là 05 năm, trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc nâng ngạch thì thời hạn là 10 năm để bảo đảm cơ chế kiểm soát chặt chẽ đối với tất cả các Kiểm sát viên.
Ban soạn thảo nhất trí với ý kiến của đa số và đã thể hiện tại Điều 66 dự thảo Luật.
Trên đây là những nội dung chính của Dự thảo Luật tổ chức VKSND (sửa đổi). Thay mặt Ban soạn thảo, Viện trưởng VKSND tối cao kính trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến./.
Nơi nhận:
-Như trên;
- Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
- Uỷ ban Tư pháp của Quốc hội;
- Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội;
- Văn phòng Quốc hội;
- Ban chỉ đạo CCTP Trung ương;
- Ban Nội chính Trung ương;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Lưu: VT, VKH.
|
VIỆN TRƯỞNG
Nguyễn Hòa Bình
|