CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

The Supreme People’s Procuracy of Viet Nam

 
DỰ THẢO SỬA ĐỔI, BỔ SUNG QUY CHẾ SỐ 59 VÀ QUYẾT ĐỊNH SỐ 487
 
 
CHƯƠNG/
Mục
QUY CHẾ SỐ 59 NGÀY 6/2/2006
ĐỀ XUẤT
SỬA ĐỔI, BỔ SUNG
THUYẾT TRÌNH KHÁI QUÁT
LÝ DO SỬA ĐỔI, BỔ SUNG
Tên Quy chế
Quy chế về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân
Quy chế về công tác tiếp công dân, tiếp nhận, xử lý đơn, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân
Tên Quy chế cần thêm cụm từ “tiếp nhận, xử lý đơn”, bỏ bớt một cụm từ “khiếu nại, tố cáo”, thêm cụm từ “về hoạt động tư pháp của các cơ quan có thẩm quyền”, thêm cụm từ “về hoạt động tư pháp”, bỏ cụm từ “thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân” cho phù hợp với phạm vi điều chỉnh của Quy chế, đúng quy định của pháp luật, đảm bảo tính logic trong câu, chữ.
 
Chương 1
 
 
 
 
 
 
 
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Quy chế này quy định về công tác tiếp công dân; tiếp nhận, phân loại, xử lý và giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân; kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về các hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp.
Việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo về quyết định, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật lao động và các khiếu nại, tố cáo liên quan đến các hoạt động kiểm sát theo quy định tại Điều 3 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân nhân dân do các quy chế của từng khâu công tác liên quan quy định chi tiết.
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
1. Quy chế này quy định về công tác tiếp công dân; tiếp nhận, phân loại, xử lý đơn; giải quyết khiếu nại, tố cáo  thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân; kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về các hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp có thẩm quyền.
Việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo về quyết định, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật lao động và các khiếu nại, tố cáo liên quan đến các hoạt động kiểm sát theo quy định tại Điều 3 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân nhân dân do các quy chế của từng khâu công tác liên quan quy định chi tiết.
2. Việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo về đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Viện kiểm sát nhân dân; quyết định kỷ luật lao động và các khiếu nại, tố cáo liên quan đến các hoạt động kiểm sát theo quy định tại Điều 3 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân nhân dân do các quy chế của từng khâu công tác liên quan quy định chi tiết. việc giải quyết đơn kiến nghị, phản ánh, yêu cầu, đề nghị, kiến nghị của cử tri, tố giác, tin báo về tôi phạm và kiến nghị khởi tố liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân không thuộc phạm vi điều chỉnh của Quy chế này, mà được thực hiện theo các quy định của pháp luật tương ứng.
3. Công tác kiểm sát xét khiếu tố của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao do các văn bản quy định về tổ chức, bộ máy và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao điều chỉnh.
- Khoản 1: Thay cụm từ “khiếu nại, tố cáo” bằng từ “đơn”, vì ngoài “khiếu nại, tố cáo”, Viện kiểm sát nhân dân còn phải tiếp nhận, phân loại, xử lý các loại đơn kiến nghị, phản ánh, yêu cầu, đề nghị, tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; thay cụm từ “tư pháp” bằng cụm từ “có thẩm quyền”, vì hiện nay có một số cơ quan không phải là “cơ quan tư pháp” nhưng cũng được giao nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động tư pháp và khi bị khiếu nại thì các cơ quan này cũng có thẩm quyền giải quyết, do đó, các cơ quan này cũng là đối tượng của công tác kiểm sát.
- Khoản 2:
+ Viết lại ngắn gọn hơn, vì nhìn chung, tất cả các khiếu nại, tố cáo ngoài hoạt động tư pháp đều thuộc khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực quản lý hành chính và được điều chỉnh chung bởi Luật khiếu nại và Luật tố cáo; bổ sung thêm một số từ và cụm từ để phù hợp.
+ Bỏ đoạn “và các khiếu nại, tố cáo liên quan đến các hoạt động kiểm sát theo quy định tại Điều 3 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân nhân dân”, vì đây thực chất cũng là khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân, nên cũng cần phải điều chỉnh luôn trong Quy chế này, thực tế các Quy chế của các  khâu công tác liên quan không có quy định về giải quyết các dạng khiếu nại, tố cáo này.
+ Hiện nay, ngoài khiếu nại, tố cáo đối với các quyết định, hành vi trong hoạt động tư pháp, còn có nhiều đơn dưới dạng kiến nghị, phản ánh, yêu cầu, đề nghị, kiến nghị liên quan đến việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân; những đơn này không phải là khiếu nại, tố cáo nên pháp luật chưa quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết (việc giải quyết loại đơn này là không bắt buộc hoặc nếu giải quyết thì thủ tục rất linh hoạt, tùy theo từng vụ việc cụ thể, không có nguyên tắc chung) hoặc có quy định ở những văn bản riêng biệt khác; do đó không cần thiết phải quy định tại Quy chế này.
- Bổ sung thêm Khoản 3 theo hướng không quy định về công tác tiếp công dân, tiếp nhận, xử lý đơn, giải quyết và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp (công tác kiểm sát xét khiếu tố) của Viện kiểm sát cấp cao trong Quy chế này. Vì hiện nay, tổ chức, bộ máy và hoạt động của Viện kiểm sát nhân cấp cấp cao có tính đặc thù và chưa được quy định cụ thể. Do đó, nên để các văn bản quy định về Viện kiểm sát nhân dân cấp cao điều chỉnh sau.
 
 
 
 
 
 
 
 
Điều 2. Về từ ngữ
Trong Quy chế này các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ảnh có liên quan đến khiếu nại, tố cáo gọi tắt là khiếu nại, tố cáo.
2. “Tiếp công dân” là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong việc tiếp người khiếu nại, tố cáo, tiếp nhận khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật tại trụ sở cơ quan Viện kiểm sát nhân dân.
3. “Điều kiện thụ lý khiếu nại, tố cáo” là những điều kiện mà pháp luật quy định về khiếu nại, tố cáo và người khiếu nại, tố cáo (như phải có đủ năng lực hành vi hoặc người đại diện phải có giấy tờ chứng minh về tính hợp pháp của việc đại diện, hoặc phải gửi kèm theo bản án, quyết định bị khiếu nại...), đảm bảo cho việc khiếu nại, tố cáo được đúng người, đúng việc và thuận lợi cho việc giải quyết của Viện kiểm sát nhân dân.
4. “Xử lý khiếu nại, tố cáo” là việc phân loại đơn khiếu nại, tố cáo theo các điều kiện thụ lý và những việc làm cụ thể của Viện kiểm sát nhân dân đối với những đơn không đủ điều kiện thụ lý giải quyết.
5. “Giải quyết khiếu nại, tố cáo” là việc Viện kiểm sát nhân dân tiến hành kiểm tra, xác minh làm rõ nội dung khiếu nại, tố cáo và áp dụng các biện pháp pháp lý theo quy định của pháp luật để khôi phục tính hợp pháp của việc làm bị khiếu nại, tố cáo.
6. “Khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân” là những khiếu nại, tố cáo mà Viện kiểm sát nhân dân phải giải quyết, những khiếu nại, tố cáo hành vi, quyết định vi phạm pháp luật của các cơ quan tư pháp và yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân thực hiện trách nhiệm kiểm sát theo quy định của pháp luật.
7. “Văn bản giải quyết khiếu nại, tố cáo” là văn bản do Viện kiểm sát nhân dân ban hành sau khi kiểm tra, xác minh nội dung khiếu nại, tố cáo, trong đó thể hiện các biện pháp pháp lý mà Viện kiểm sát nhân dân áp dụng để xử lý việc làm bị khiếu nại, tố cáo.
8. “Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về các hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp” (dưới đây gọi tắt là kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp), là việc Viện kiểm sát nhân dân xem xét việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án của Cơ quan điều tra, Tòa án, Cơ quan thi hành án và cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra.
Điều 2. Về từ ngữ
Trong Quy chế này các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ảnh ánh có liên quan đến khiếu nại, tố cáo gọi tắt là khiếu nại, tố cáo, đề nghị, yêu cầu, kiến nghị của cử tri, tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố gửi đến Viện kiểm sát nhân dân sau đây gọi chung là đơn.
          2.“Quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật” về hoạt động tư pháp bao gồm:
- Quyết định giải quyết cuối cùng của Viện kiểm sát nhân dân;
- Quyết định giải quyết lần đầu của Viện kiểm sát nhân dân hoặc của Cơ quan điều tra nhưng hết thời hiệu mà người khiếu nại không khiếu nại tiếp.
3. Các trường hợp khiếu nại về hoạt động tư pháp có quyết định giải quyết đã có hiệu lực pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân hoặc Cơ quan điều tra, nếu người khiếu nại lại tiếp tục gửi đơn có nội dung đã được giải quyết, dù đơn viết dưới loại “khiếu nại”, “tố cáo”, “kiến nghị”, “phản ánh”, “yêu cầu” hay “đề nghị”…thì đều được xác định là “Đơn đề nghị kiểm tra lại quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật”.
2. “Tiếp công dân” là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong việc tiếp người khiếu nại, tố cáo, tiếp nhận khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật tại trụ sở cơ quan Viện kiểm sát nhân dân.
4. “Điều kiện thụ lý khiếu nại, tố cáo đơn” là những điều kiện mà pháp luật quy định về khiếu nại, tố cáo và người khiếu nại, tố cáo (như phải có đủ năng lực hành vi hoặc người đại diện phải có giấy tờ chứng minh về tính hợp pháp của việc đại diện, hoặc phải gửi kèm theo bản án, quyết định bị khiếu nại...), đảm bảo cho việc khiếu nại, tố cáo được đúng người, đúng việc và thuận lợi cho việc giải quyết của Viện kiểm sát nhân dân người gửi đơn phải đáp ứng đầy đủ thì đơn mới được thụ lý.
5. “Xử lý khiếu nại, tố cáo đơn” là việc phân loại đơn khiếu nại, tố cáo theo các điều kiện thụ lý và những việc làm cụ thể của Viện kiểm sát nhân dân đối với những đơn sau khi đã được tiếp nhận, phân loại, bao gồm: chuyển thụ lý đơn thuộc thẩm quyền giải quyết và kiểm sát việc giải quyết; chuyển đơn (đồng thời thông báo cho người gửi đơn) hoặc hướng dẫn người gửi đơn trong trường hợp đơn không thuộc thẩm quyền; hướng dẫn hoặc thông báo cho người gửi đơn trong trường hợp đơn chưa đủ hoặc không đủ điều kiện xử lý hoặc thụ lý không đủ điều kiện thụ lý giải quyết.
5. “Giải quyết khiếu nại, tố cáo” là việc Viện kiểm sát nhân dân tiến hành kiểm tra, xác minh làm rõ nội dung khiếu nại, tố cáo và áp dụng các biện pháp pháp lý theo quy định của pháp luật để khôi phục tính hợp pháp của việc làm bị khiếu nại, tố cáo.
6. “Khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân” là những khiếu nại, tố cáo mà Viện kiểm sát nhân dân phải giải quyết, những khiếu nại, tố cáo hành vi, quyết định vi phạm pháp luật của các cơ quan tư pháp và yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân thực hiện trách nhiệm kiểm sát theo quy định của pháp luật.
6. Đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát nhân dân bao gồm: khiếu nại, tố cáo hoặc kiến nghị, phản ảnh, đề nghị, yêu cầu, kiến nghị của cử tri, tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, mà theo quy định của pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền giải quyết.
7. Đơn thuộc thẩm quyền kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân bao gồm: Khiếu nại, tố cáo về hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan khác, nhưng theo quy định của pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền kiểm sát việc giải quyết.
8. “Văn bản giải quyết khiếu nại, tố cáo” là văn bản do Viện kiểm sát nhân dân ban hành sau khi kiểm tra, xác minh nội dung kết thúc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, trong đó thể hiện các biện pháp pháp lý mà Viện kiểm sát nhân dân áp dụng để xử lý việc làm bị khiếu nại, tố cáo, bao gồm: quyết định giải quyết khiếu nại; kết luận nội dung tố cáo; thông báo kết quả giải quyết tố cáo (nếu người tố cáo có yêu cầu); các văn bản xử lý khác (nếu có).
9. “Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về các hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp có thẩm quyền” (dưới đây gọi tắt là kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp), là việc Viện kiểm sát nhân dân xem xét việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án hình sự, thi hành án dân sự của Cơ quan điều tra, Tòa án, Cơ quan thi hành áncơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện các quyền năng theo quy định của pháp luật.
10. Vụ Kiểm sát xét khiếu tố thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Phòng Kiểm sát xét thiếu tố thuộc Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Bộ phận Kiểm sát xét khiếu tố thuộc Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện sau đây gọi chung là “đơn vị Khiếu tố”.
- Khoản 1 Quy chế cũ quy định không phù hợp, cần quy định lại theo hướng liệt kê tất cả các dạng đơn gửi đến Viện kiểm sát nhân dân và được gọi chung là “đơn”.
- Bổ sung thêm Khoản 2 và Khoản 3 mới để quy định về nội hàm của khái niệm “Quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật” và thống nhất xác định về loại đơn “Đơn đề nghị kiểm tra lại quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật”, nhằm bổ sung cho các nội dung được quy định tại Điều 14 Dự thảo Quy chế.
- Khoản 2 cũ đã được quy định rõ trong Luật tiếp công dân, nên không cần quy định lại.
- Khoản 3 (cũ) quy định có phần hơi dài và một số câu chữ không cần thiết, vì vậy, cần viết lại cho gọn, rõ ý, phù hợp với Khoản 1 và được chuyển thành Khoản 4 (mới).
- Khoản 4 (cũ) được chuyển thành Khoản 5 (mới), được quy định lại theo hướng xác định xử lý đơn là giai đoạn sau các giai đoạn tiếp nhận và phân loại; phải quy định cụ thể những việc làm trong giai đoạn xử lý đối với từng loại đơn đã được phân loại như: đơn thuộc thẩm quyền (bao gồm thẩm quyền giải quyết và kiểm sát việc giải quyết); đơn không thuộc thẩm quyền; đơn chưa đủ hoặc không đủ điều kiện xử lý hoặc thụ lý.
- Khoản 5 (cũ) không cần thiết phải quy định vì các khái niệm “giải quyết khiếu nại” và “giải quyết tố cáo” đã được quy định rõ trong Luật khiếu nại và Luật tố cáo.
- Khoản 6 (cũ) chuyển thành Khoản 6 và Khoản 7 mới, được viết lại theo hướng quy định rõ đơn thuộc thẩm quyền gồm hai dạng: (1) thẩm quyền giải quyết, (2) thẩm quyền kiểm sát việc giải quyết. Trong đó, đơn thuộc thẩm quyền giải quyết bao gồm cả đơn khiếu nại, tố cáo hoặc kiến nghị, phản ánh, yêu cầu, đề nghị, kiến nghị (trong cả hoạt động tư pháp và hoạt động quản lý hành chính), tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; còn đơn thuộc thẩm quyền kiểm sát việc giải quyết chỉ gồm khiếu nại và tố cáo trong hoạt động tư pháp.
- Khoản 7 (cũ) được chuyển thành Khoản 8 (mới), trong đó viết gọn lại một số ý và nêu cụ thể một số hình thức văn bản giải quyết khiếu nại, tố cáo để thống nhất nhận thức.
- Khoản 8 (cũ) được chuyển thành Khoản 9 (mới), trong đó bỏ cụm từ “cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra”, vì các cơ quan này không được giao thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động điều tra, nên không phải là đối tượng của công tác kiểm sát; ngoài ra, quy định rõ hoạt động thi hành án gồm hoạt động thi hành án hình sự và thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án gồm cơ quan thi hành án hình sự và cơ quan thi hành án dân sự, vì đây là các hoạt động và các cơ quan khác nhau, được điều chỉnh bởi các đạo luật khác nhau; khoản này cũng bổ sung thêm cụm từ “thực hiện các quyền năng theo quy định của pháp luật”, vì công tác kiểm sát ngoài việc “xem xét việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo…” thì Viện kiểm sát nhân dân còn thực hiện các quyền năng pháp lý khác để đảm bảo hoạt động kiểm sát có hiệu quả, như các quyền yêu cầu ra văn bản giải quyết, kiểm tra việc giải quyết, cung cấp hồ sơ giải quyết, kiểm sát trực tiếp, kiến nghị, kháng nghị.
- Thêm Khoản 10 (mới) để thống nhất cách gọi chung cho đơn vị hoặc bộ phận Kiểm sát xét khiếu tố thuộc Viện kiểm sát nhân dân các cấp.
 
 
Điều 3. Quy định về tiếp công dân
1. Viện trưởng VKS các cấp có trách nhiệm bố trí phòng tiếp công dân tại trụ sở cơ quan ở vị trí thuận tiện. Phòng tiếp công dân phải có biển đề: “Phòng tiếp công dân”, có niêm yết nội quy và lịch tiếp công dân.
2. Việc tiếp công dân phải được tiến hành công khai tại phòng tiếp công dân và theo lịch tiếp công dân. Trường hợp công dân đến tố cáo hoặc ở xa đến khiếu nại lần đầu phải được tiếp ngay. Viện kiểm sát các cấp phải tạo điều kiện thuận lợi và hướng dẫn công dân khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật. Không được tiếp công dân ngoài nơi quy định.
3. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp có trách nhiện bố trí cán bộ, Kiểm sát viên, Điều tra viên tiếp công dân. Người tiếp công dân phải mặc trang phục có phù hiệu của ngành Kiểm sát, đeo thẻ công chức và phải có thái độ đúng mự, tôn trọng công dân. Không được hứa hẹn hoặc thông báo cho công dân nội dung hoặc kết quả giải quyết khi việc giải quyết chưa được kết luận bằng văn bản; việc tiếp nhận đơn khiếu nịa, tố cáo và tài liệu, chứng cứ liên quan phải có giấy biên nhận.
4. Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp có trách nhiệm thông báo số điện thoại cơ quan và lập hòm thư “tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố” để nhân dân cung cấp thông tin về tội phạm được thuận lợi. Hòm thư “tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố” phải được đặt ở nơi thuận tiện tại trụ sở cơ quan.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Điều 3. Quy định chung về tiếp công dân.
1. Nơi tiếp công dân của Viện kiểm sát nhân dân bao gồm địa điểm tiếp công dân hoặc nơi làm việc khác do Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm tiếp công dân bố trí và phải được thông báo công khai hoặc thông báo trước cho người được tiếp.
2. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp có trách nhiệm:    
 a. Bố trí địa điểm tiếp công dân ở vị trí thuận tiện, bảo đảm các điều kiện vật chất cần thiết để công dân đến trình bày khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh được dễ dàng, thuận lợi. Địa điểm tiếp công dân phải có biển hiệu, niêm yết nội quy và lịch tiếp công dân.
b.Bố trí người tiếp công dân theo quy định tại Khoản 1, Điều … của Quy chế này.
c. Thông báo số điện thoại cơ quan và lập hòm thư “tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố” để nhân dân cung cấp thông tin về tội phạm được thuận lợi. Hòm thư “tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố” phải được đặt ở nơi thuận tiện tại trụ sở cơ quan.
3. Việc tiếp công dân phải được tiến hành công khai, dân chủ, kịp thời; thủ tục đơn giản, thuận tiện tại nơi tiếp công dân; giữ bí mật và bảo đảm an toàn cho người tố cáo theo quy định của pháp luật; bảo đảm khách quan, bình đẳng, không phân biệt đối xử trong khi tiếp công dân; tôn trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo quy định của pháp luật; không được tiếp dân ngoài nơi quy định.
 Người tiếp dân phải mặc trang phục Ngành đầy đủ, đúng quy định.
Không hứa hẹn hoặc thông báo cho công dân nội dung hoặc kết quả giải quyết chưa được kết luận bằng văn bản; việc tiếp nhận đơn khiếu nại, tố cáo và tài liệu, chứng cứ liên quan phải cấp giấy biên nhận.
4. Từ chối tiếp công dân trong các trường hợp sau:
  - Người trong tình trạng say do dùng chất kích thích, người mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mắt khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
- Người có hành vi đe dọa, xúc phạm cơ quan, tổ chức đơn vị, người tiếp công dân, người thi hành công vụ hoặc có hành vi khác vi phạm nội quy nơi tiếp công dân;
- Người khiếu nại, tố cáo về vụ việc đã giải quyết đúng chính sách, pháp luật, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, rà soát, thông báo bằng văn bản và đã được tiếp, giải thích, hướng dẫn nhưng vẫn cố tình khiếu nại, tố cáo kéo dài;
   Những trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
Sửa đổi Điều này trên cơ sở những quy định mới của Luật tiếp công dân năm 2013 về việc tôn trọng và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho công dân và bảo đảm khách quan, bình đẳng, đầy đủ cơ sở vật chất phục vụ công dân… tại Trụ sở tiếp công dân.
(Điều 9 Luật tiếp công dân quy định).
 
Điều 4.Thời gian tiếp công dân
Việc tiếp công dân tại Viện kiểm sát được thực hiện 24/24 giờ trong ngày. Ngoài giờ làm việc hành chính, VKS các cấp chỉ tiếp công dân, cơ quan, tổ chức đến tố giác, báo tin về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố, tiếp người phạm tội đến tự thú, đầu thú.
Điều 4. Tiếp nhận, xử lý đơn qua công tác tiếp công dân.
1. Khi công dân đến gửi đơn, người tiếp công dân tiếp nhận và ghi đầy đủ vào sổ theo mẫu quy định. Trường hợp chưa có đơn thì người tiếp hướng dẫn viết đơn hoặc ghi lại đầy đủ, chính xác nội dung cần trình bày của công dân và yêu cầu họ ký xác nhận hoặc điểm chỉ.
2. Việc xử lý đơn tiếp công dân được thực hiện theo quy định tại Điều 28 Luật tiếp công dân và Điều 11 Quy chế này.
Bỏ nội dung của Điều 4 cũ vì việc tiếp công dân ngoài giờ hành chính do ca trực nghiệp vụ đảm nhiệm và đã có quy định riêng của VKSNDTC về trực nghiệp vụ. Thay thế nội dung mới của Điều 4 quy định về việc tiếp nhận, xử lý đơn nhận qua nguồn tiếp công dân.
 
Điều 5: Tiếp công dân trong giờ làm việc hành chính
1. Trách nhiệm tiếp công dân của đơn vị Khiếu tố:
Đơn vị Khiếu tố thuộc Viện kiểm sát các cấp có trách nhiệm tiếp công dân ban đầu và phải thực hiện đầy đủ các việc sau:
a) Yêu cầu công dân xuất trình giấy tờ tùy thân và đơn khiếu nại, tố cáo, các tài liệu, chứng cứ để kiểm tra điều kiện thụ lý giải quyết, điều kiện cần có của người khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật và xác định khiếu nại, tố cáo đó có thuộc trách nhiệm, thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát hay không; giải thích cho công dân về quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại, tố cáo. Ghi chép đầy đủ việc tiếp công dân vào sổ tiếp công dân.
Trường hợp khiếu nại, tố cáo đông người có cùng nội dung thì chỉ tiếp ngưũi đại diện, người có quyền, lợi ích trực tiếp liên quan đến việc khiếu nại, người có tên trong bản án, quyết định của Tòa án bị khiếu nại; trường hợp khiếu nại thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của Viện kiểm sát nhưng thiếu tài liệu cần thiết để giải quyết khiếu nại (thiếu bản án, quyết định hoặc văn bản bị khiếu nại...), thì hướng dẫn công dân bổ sung; trường hợp không thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của Viện kiểm sát thì hướng dẫn công dân đến khiếu nại, tố cáo tại cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Nếu người khiếu nại hoặc tố cáo không có đơn thì yêu cầu họ viết đơn; nếu họ không thể tự viết đơn được thì lập biên bản ghi lại nội dung khiếu nại, tố cáo. Biên bản ghi lời khiếu nại, tố cáo phải được đọc cho người khiếu nại, tố cáo nghe và phải có chữ ký trực tiếp hoặc điểm chỉ của họ;
b) Sau khi kiểm tra thấy việc khiếu nại, tố cáo có đủ điều kiện thụ lý thì thông báo cho các đơn vị liên quan đến khiếu nại, tố cáo tiếp công dân, đồng thời làm giấy biên nhận đơn và tài liệu cho công dân khi có yêu cầu.
c) Trong vòng 48 giờ phải chuyển các đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh đó tiếp nhận cho các đơn vị liên quan. Việc giao nhận đơn, tài liệu phải có ký nhận.
2. Trách nhiệm tiếp công dân của các đơn vị liên quan:
a) Tiếp theo yêu cầu của công dân:
Sau khi được đơn vị Khiếu tố thông báo việc tiếp công dân, các đơn vị liên quan phải thực hiện đầy đủ các việc sau:
- Cử ngay cán bộ, Kiểm tra viên, Kiểm sát viên, Điều tra viên tiếp công dân theo đúng nhiệm vụ được phân công, không để công dân phải chờ đợi lâu; trường hợp vì lý do khách quan mà không tiếp công dân thì phải hẹn ngày tiếp và thông báo cho đơn vị Khiếu tố biết;
- Đối thoại với công dân và yêu cầu công dân trình bày bổ sung về việc khiếu nại, tố cáo, xuất trình bổ sung các tài liệu, chứng cứ liên quan đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và phải lập biên bản đầy đủ về việc công dân thực hiện các yêu cầu này;
b) Tiếp theo yêu cầu của việc giải quyết
Qua nghiên cứu hồ sơ, tài liệu liên quan trong quá trình giải quyết, nếu xét thấy cần phải đối thoại với công dân để làm rõ vấn đề cần xem xét, thì đơn vị có trách nhiệm làm giấy mời công dân và thông báo cho đơn vị Khiếu tố biết.
Điều 5. Nhiệm vụ tiếp công dân của các đơn vị.
1. Nhiệm vụ của đơn vị Khiếu tố:
Tiếp công dân ban đầu; yêu cầu công dân xuất trình giấy tờ tùy thân và các tài liệu, chứng cứ cần thiết khác; giải thích cho công dân về quyền và nghĩa vụ của người gửi đơn; trường hợp cùng một vụ việc nhưng có đông người tham gia thì chỉ tiếp người đại diện.
2. Nhiệm vụ của các đơn vị liên quan:
a. Khi được đơn vị Khiếu tố thông báo việc tiếp công dân, các đơn vị liên quan phải cử ngay người có trách nhiệm tiếp công dân theo quy định; trường hợp vì lý do khách quan mà chưa tiếp được thì phải hẹn ngày tiếp và thông báo cho đơn vị Khiếu tố biết;
b. Trong quá trình giải quyết đơn, nếu xét thấy cần phải tiếp công dân thì đơn vị có trách nhiệm làm giấy mời công dân và thông báo cho đơn vị Khiếu tố biết.
          3. Phối hợp của các đơn vị trong việc tiếp công dân về cùng một vụ việc nhưng có đông người gia
Khi nhận được yêu cầu của người phụ trách địa điểm tiếp công dân thì Thủ trưởng các đơn vị có liên quan có nhiệm vụ:
    - Cử người có trách nhiệm hoặc trực tiếp tiếp công dân;
   - Cung cấp thông tin, tài liệu về vụ việc theo yêu cầu của người có thẩm quyền;
    - Giải quyết hoặc chỉ đạo việc giải quyết vụ việc thuộc phạm vi trách nhiệm của mình theo quy định của pháp luật.
 
- Điều 5 được sửa đổi, bổ sung toàn bộ, viết lại ngắn gọn hơn trên cơ sở nội dung trước và một số quy định mới của Luật tiếp công dân năm 2013 và thực hiện Đề án đổi mới công tác tiếp công dân là giải quyết và kiểm sát việc giải quyết đơn tập trung vào một đầu mối trong ngành kiểm sát; trong đó quy định rõ nhiệm vụ tiếp công dân của đơn vị khiếu tố, các đơn vị nghiệp vụ khác, việc phối hợp giữa các đơn vị trong trường hợp tiếp công dân đối với vụ việc có đông người tham gia.
- Trong đó lưu ý đơn vị Khiếu tố có nhiệm vụ tiếp công dân “ban đầu” được hiểu là mọi trường hợp công dân đến địa điểm công dân của Viện kiểm sát các cấp, đều phải do đơn vị Khiếu tố tiếp trước tiên, dù là họ đến gửi đơn lần đầu tiên hay trước đó đã đến nhiều lần.
 
Điều 6: Tiếp công dân ngoài giờ làm việc hành chính
1. Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp có trách nhiệm tổ chức việc tiếp công dân ngoài giờ hành chính (kể cả ngày nghỉ, ngày lễ) theo ca trực nghiệp vụ.
2. Cán bộ, Kiểm tra viên, Kiểm sát viên, Điều tra viên làm nhiệm vụ trực nghiệp vụ phải có mặt tại nơi trực trong thời gian trực và phải thực hiện đầy đủ các việc sau:
a) Tiếp công dân, cơ quan, tổ chức đến tố giác, báo tin về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố và ghi chép đầy đủ vào sổ tiếp nhận, tin báo, tố giác về tội phạm. Nếu công dân không có đơn thì phải lập biên bản về lời trình bày của họ. Biên bản phải có chữ ký trực tiếp hoặc điểm chỉ của công dân.
Đối với những tin báo, tố giác về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, hoặc cần thiết phải có biện pháp xử lý khẩn cấp, Trưởng ca trực phải báo cáo ngay với Lãnh đạo Viện kiểm sát cùng cấp để xin ý kiến chỉ đạo giải quyết;
b) Tiếp người phạm tội đến tự thú, đầu thú và ghi chép đầy đủ vào sổ trực, đồng thời lập biên bản ghi lời tự thú, đầu thú lời khai sơ bộ của người tự thú, đầu thú. Biên bản phải có chữ ký trực tiếp hoặc điểm chỉ của người đến tự thú, đầu thú. Sau đó, phải báo ngay cho cơ quan điều tra có thẩm  quyền biết để tiếp nhận giải quyết việc tự thú, đầu thú theo quy định của pháp luật.
c) Hết ca trực, Trưởng ca phải ghi vào sổ trực nghiệp vụ tình hình, kết quả xử lý công việc trong ca trực, đồng thời chuyển đơn, tài liệu, chứng cứ liên quan và các biên bản lập trong ca trực tới các đơn vị có liên quan. Đối với các vụ, việc phức tạp thì phải báo cáo lãnh đạo Viện để chỉ đạo xử lý.
Bỏ Điều 6
Lý do bỏ Điều này tương tự như Điều 4
 
Điều 7. Tiếp công dân của lãnh đạo VKS
1. Khi nhận được yêu cầu của công dân và việc khiếu nại, tố cáo của họ đã được đơn vị liên quan giải quyết nhưng còn có khiếu nại, thì lãnh đạo Viện kiểm sát tiếp công dân theo quy định như sau:
a) Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương mỗi tháng trực tiếp tiếp công dân ít nhất 1 ngày;
b) Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu và tương đương mỗi tháng trực tiếp tiếp công dân ít nhất 2 ngày;
c) Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực mỗi tháng trực tiếp tiếp công dân ít nhất 3 ngày.
Ngoài việc tiếp theo quy định trên, lãnh đạo Viện kiểm sát còn tiếp công dân trong trường hợp cần thiết.
2. Để việc tiếp công dân của lãnh đạo Viện kiểm sát được hiệu quả, thiết thực, cần thực hiện các việc sau đây:
a) Đơn vị Khiếu tố có trách nhiệm phối hợp với đơn vị liên quan để đề xuất bằng văn bản kế hoạch tiếp công dân của lãnh đạo Viện. Kế hoạch này phải nêu rõ những trường hợp công dân cần được tiếp, nội dung, thời gian tiếp công dân, đồng thời báo tin cho các công dân đó biết về việc tiếp dân của lãnh đạo Viện sau khi đề xuất được phê duyệt;
b) Các đơn vị liên quan có trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ, tài liệu; đề xuất bằng văn bản hướng giải quyết đối với khiếu nại, tố cáo cho lãnh đạo Viện trước khi lãnh đạo Viện tiếp công dân ít nhất là 3 ngày và thông báo cho đơn vị Khiếu tố biết.
c) Khi lãnh đạo Viện kiểm sát tiếp công dân, phải có mặt 01 Kiểm sát viên hoặc Kiểm tra viên được giao nghiên cứu vụ việc và 01 Kiểm sát viên hoặc cán bộ thuộc đơn vị Khiếu tố. Cán bộ đơn vị khiếu tố có mặt tại buổi tiếp có trách nhiệm lập biên bản về nội dung buổi tiếp công dân của lãnh đạo.
3. Việc tiếp công dân của Viện trưởng là tiếp lần cuối cùng của cấp mình.
Điều 6. Tiếp công dân của lãnh đạo Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp trực tiếp thực hiện việc tiếp công dân theo quy định như sau:
a. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao mỗi tháng trực tiếp tiếp công dân ít nhất 1 ngày;
b. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh mỗi tháng trực tiếp tiếp công dân ít nhất 2 ngày;
c. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện mỗi tháng trực tiếp tiếp công dân 3 ngày.
d. Tiếp công dân đột xuất trong các trường hợp:
 - Vụ việc gay gắt, phức tạp, có nhiều người tham gia, liên quan đến trách nhiệm của nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc ý kiến của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, còn khác nhau.
 - Vụ việc nếu không chỉ đạo, xem xét kịp thời có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng hoặc có thể dẫn đến hủy hoại tài sản của Nhà nước, của tập thể, xâm hại đến tính mạng, tài sản của nhân dân, ảnh hưởng đến an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
Điều 7 cũ được chuyển thành Điều 6 mới, sửa đổi, bổ sung toàn bộ trên cở sở những quy định mới của Luật tiếp công dân năm 2013, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan VKSND các cấp trong công tác tiếp công dân.
 
Điều 8: Bảo đảm trật tự, an toàn trong tổ chức tiếp công dân.
   Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp có trách nhiệm phối hợp với cơ quan Công an phụ trách địa bàn nơi tiếp công dân để bảo vệ trật tự , an toàn nơi tiếp công dân; có biện pháp phòng chống cháy nổ theo quy định chung; xử lý kịp thời, kiên quyết các trường hợp lợi dụng quyền tự do dân chủ, quyền khiếu nại, tố cáo để có hành vi vi phạm pháp luật tại nơi tiếp công dân.
Điều 7: Bảo đảm trật tự, an toàn trong tổ chức tiếp công dân.
   Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp có trách nhiệm phối hợp với cơ quan Công an phụ trách địa bàn nơi tiếp công dân để bảo vệ trật tự , an toàn nơi tiếp công dân; có biện pháp phòng chống cháy nổ theo quy định chung; xử lý kịp thời, kiên quyết các trường hợp lợi dụng quyền tự do dân chủ, quyền khiếu nại, tố cáo để có hành vi vi phạm pháp luật tại nơi tiếp công dân.
Điều 8 cũ được chuyển thành Điều 7 mới, nội dung được giữ nguyên
 
 
Điều 8. Tiêu chuẩn, chế độ, chính sách đối với người tiếp công dân
1. Người tiếp công dân phải là người có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực chuyên môn, nắm vững chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, am hiểu thực tế, có khả năng vận động, thuyết phục quần chúng, nhiệt tình, bảo đảm yêu cầu về sức khỏe và có trách nhiệm với nhiệm vụ được giao.
2. Người làm công tác tiếp công dân được hưởng chế độ bồi dưỡng tiếp công dân và các chế độ khác theo quy định của Chính phủ.
Bổ sung thêm Điều 8 mới trên cơ sở quy định mới của Luật tiếp công dân năm 2013 và các văn bản có liên quan  để có chế độ đãi ngộ có tính chất đặc thù đối với những cán bộ làm công tác tiếp công dân.
ChươngIII
Khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo
Tiếp nhận, xử lý, quản lý đơn và giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp
Đặt lại tên Chương III cho phù hợp với các nội dung của Chương
Mục 1
Tiếp nhận, phân loại và xử lý khiếu nại, tố cáo
Tiếp nhận, phân loại, xử lý và quản lý đơn khiếu nại, tố cáo
Đặt lại tên mục 1 cho phù hợp
 
Điều 9. Tiếp nhận khiếu nại, tố cáo
1. Đơn khiếu nại, tố cáo gửi đến Viện kiểm sát (kể cả đơn gửi đến lãnh đạo Viện) đều phải được quản lý thống nhất qua một đầu mối là đơn vị Khiếu tố. Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương có trách nhiệm phân loại đơn được tiếp nhận qua hòm thư tố giác tội phạm và thụ lý đơn thuộc thẩm quyền, đồng thời chuyển ngay những đơn không thuộc thẩm quyền cho đơn vị Khiếu tố xử lý theo quy định chung.
2. Không được tiếp nhận đơn khiếu nại, tố cáo ngoài nơi quy định.
Điều 9. Quy định chung về tiếp nhận, xử lý và quản lý đơn
1. Đơn gửi đến Viện kiểm sát nhân dân từ tất cả các nguồn (kể cả đơn gửi đến lãnh đạo Viện) đều phải được tiếp nhận thống nhất qua một đầu mối là đơn vị Khiếu tố để xử lý và quản lý.
2. Đối với tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, thì việc tiếp nhận, xử lý và quản lý theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Quy chế công tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố ban hành theo Quyết định số 422/QĐ-VKSTC ngày 17/10/2014 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
3. Cục điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao có trách nhiệm tiếp nhận, phân loại, xử lý đơn gửi đến đơn vị mình; những đơn không thuộc thẩm quyền thì chuyển ngay đến Vụ Kiểm sát xét khiếu tố để xử lý và quản lý theo quy định chung.
4. Không được tiếp nhận đơn ngoài nơi quy định.
- Bỏ cụm từ “khiếu nại, tố cáo” sau từ đơn vì việc tiếp nhận là tất cả các loại đơn, không chỉ có đơn khiếu nại, tố cáo. Thay từ “quản lý” bằng từ “tiếp nhận” để phù hợp với giai đoạn ban đầu là tiếp nhận đơn
- Bỏ cụm từ “Viện kiểm sát quân sự trung ương” vì nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của quy chế.
- Đoạn 1 này được viết lại ngắn gọn để phù hợp với quy định chung của BLTTHS.
 
Điều 10. Phân loại đơn khiếu nại, tố cáo
Đơn khiếu nại, tố cáo được gửi đến Viện kiểm sát được phân thành các loại sau:
1. Đơn không thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của Viện kiểm sát.
2. Đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát.
3. Đơn thuộc trách nhiệm kiểm sát của Viện kiểm sát.
4. Đơn không đủ điều kiện để xử lý, giải quyết.
Điều 10. Phân loại đơn khiếu nại, tố cáo
Đơn khiếu nại, tố cáo được gửi đến Viện kiểm sát nhân dân bao gồm các loại sau:
1. Đơn thuộc thẩm quyền giải quyết và kiểm sát việc giải quyết của Viện kiểm sát nhân dân.
2. Đơn không thuộc thẩm quyền giải quyết, trách nhiệm của Viện kiểm sát.
3. Đơn thuộc trách nhiệm kiểm sát của Viện kiểm sát.
3. Đơn không đủ điều kiện để xử lý, giải quyết.
- Bỏ cụm từ “khiếu nại, tố cáo” sau từ đơn, để chỉ việc phân loại đơn nói chung
- Đảo khoản 2 thành khoản 1 để cho thống nhất cách viết về xử lý đơn thuộc thẩm quyền trước.
- Bỏ khoản 3, viết lại cùng vào khoản 1 và sử dụng cụm từ “thẩm quyền kiểm sát” thay cho cụm từ “trách nhiệm kiểm sát” cho phù hợp với quy định mới của Luật tổ chức Viện kiểm sát về chức năng nhiệm vụ của ngành.
 
 
Điều 11. Xử lý đơn khiếu nại, tố cáo
1. Xử lý đơn khiếu nại:
a) Đối với đơn khiếu nại không thuộc thẩm quyền giải quyết hoặc không thuộc trách nhiệm kiểm sát của Viện kiểm sát thì trả lại đơn và chỉ dẫn, trả lời cho người có đơn biết để họ gửi đơn đến đúng nơi có thẩm quyền giải quyết. Nếu người khiếu nại gửi kèm theo tài liệu là bản gốc thì phải gửi trả lại cho họ theo đường bưu điện bằng hình thức bảo đảm; trường hợp đơn thuộc thẩm quyền giải quyết hoặc thuộc trách nhiệm kiểm sát của Viện kiểm sát cấp khác hoặc địa phương khác thì phải chuyển đơn khiếu nại, cùng tài liệu, chứng cứ gửi kèm cho Viện kiểm sát có thẩm quyền, đồng thời có văn bản báo tin cho người khiếu nại biết;
b) Đối với đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của Viện kiểm sát cấp mình nhưng có nhiều nội dung khác nhau thuộc thẩm quyền giải quyết của nhiều cơ quan khác nhau, hoặc đơn có nội dung vừa khiếu nại, vừa tố cáo, thì phải có văn bản chỉ dẫn cho người có đơn viết thành từng đơn có nội dung riêng để thực hiện việc khiếu nại; trường hợp đơn khiếu nại chưa đủ điều kiện để thụ lý theo quy định tại Khoản 3 Điều 2 Quy chế này, thì phải có văn bản chỉ dẫn cho người khiếu nại cung cấp bổ sung tài liệu có liên quan;
c) Đối với đơn khiếu nại không đủ điều kiện thụ lý thì có văn bản chỉ dẫn, trả lời rõ lý do cho người khiếu nại biết. Việc chỉ dẫn trả lời này chỉ thực hiện một lần cho một việc khiếu nại.
2. Xử lý đơn tố cáo:
a) Đối với đơn tố cáo không thuộc thẩm quyền giải quyết thì phải chuyển ngay đơn cùng các tài liệu chứng cứ gửi kèm cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết, đồng thời có văn bản báo tin cho người có đơn biết;
b) Đối với đơn tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết nhưng có một phần nội dung thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan khác thì thụ lý nội dung thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát, đồng thời có văn bản chỉ dẫn người tố cáo viết đơn riêng theo nội dung tố cáo còn lại để gửi đến đúng nơi có thẩm quyền; trường hợp đơn có nhiều nội dung tố cáo khác nhau nhưng đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát, mà từng nội dung này lại do các đơn vị, bộ phận khác nhau xem xét thì đơn vị, bộ phận khiếu tố báo cáo đề xuất bằng văn bản với Viện trưởng để Viện trưởng phân công trách nhiệm chủ trì và phối hợp giữa các đơn vị, bộ phận trong giải quyết đơn và trả lời người có đơn;
c) Đối với đơn tố cáo hành vi phạm tội thì xử lý theo quy định tại Điều 103 Bộ luật tố tụng hình sự. Trường hợp tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát thì xử lý theo quy định tại Quyết định 144 ngày 07/11/2003 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
d) Không xem xét đối với tố cáo giấu tên, mạo tên, không rõ địa chỉ, không có chữ ký trực tiếp mà sao chụp chữ ký hoặc những tố cáo đã được cấp có thẩm quyền xem xét, kết luận nay tố cáo lại nhưng không có thêm tài liệu chứng cứ mới.
3. Đối với đơn khiếu nại, tố cáo do cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức có chức năng giám sát chuyển đến, nếu thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát thì đơn vị có trách nhiệm giải quyết phải có văn bản thông báo việc thụ lý cho cơ quan, người chuyển đơn biết. Trường hợp không đúng thẩm quyền thì đơn vị khiếu tố trả đơn cho người khiếu nại và thông báo bằng văn bản cho cơ quan, người chuyển đơn biết.
4. Đối với khiếu nại, tố cáo có đủ điều kiện giải quyết thì phải thụ lý và ghi chép đầy đủ vào sổ quản lý và theo dõi việc thụ lý giải quyết khiếu nại, tố cáo theo mẫu do Viện kiểm sát tối cao ban hành.
Điều 11. Xử lý đơn
1. Xử lý đơn khiếu nại:
a. Đối với đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết hoặc kiểm sát việc giải quyết của Viện kiểm sát nhân dân cấp mình, thì chuyển thụ lý để giải quyết và thực hiện thẩm quyền kiểm sát việc giải quyết theo quy định của pháp luật và Quy chế này.
b. Đối với đơn khiếu nại không thuộc thẩm quyền giải quyết hoặc kiểm sát việc giải quyết của Viện kiểm sát nhân dân cấp mình, thì trả lại đơn và tài liệu kèm theo (nếu có) cho người gửi đơn, đồng thời hướng dẫn gửi đơn đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết; trường hợp đơn thuộc thẩm quyền giải quyết hoặc kiểm sát việc giải quyết của Viện kiểm sát nhân dân khác, thì chuyển đơn cùng tài liệu gửi kèm (nếu có) cho Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền.
2. Xử lý đơn tố cáo:
a. Đối với đơn tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát nhân dân cấp mình, thì thực hiện theo Điểm a, Khoản 1, Điều 20 Luật tố cáo; đối với đơn tố cáo thuộc thẩm quyền kiểm sát việc giải quyết của Viện kiểm sát nhân dân cấp mình, thì chuyển thụ lý và thực hiện thẩm quyền kiểm sát việc giải quyết theo quy định của pháp luật và Quy chế này.
b. Đối với đơn tố cáo không thuộc thẩm quyền giải quyết hoặc kiểm sát việc giải quyết của Viện kiểm sát nhân dân cấp mình, thì phải chuyển ngay đơn và các tài liệu gửi kèm theo (nếu có) cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết, đồng thời có văn bản báo tin cho người gửi đơn biết, nếu có yêu cầu; trường hợp đơn đã chuyển là tố cáo về tư pháp, thì ngoài việc chuyển đơn cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết, phải thông báo cho Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền kiểm sát việc giải quyết biết.
3. Xử lý đơn khiếu nại, tố cáo có nhiều nội dung hoặc thuộc thẩm quyền giải quyết của nhiều cơ quan
a. Đối với đơn có nhiều nội dung, trong đó có nội dung thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát nhân dân cấp mình, có nội dung thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan khác, thì thụ lý nội dung thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát nhân dân cấp mình, đồng thời có văn bản chỉ dẫn người gửi đơn viết lại đơn khác theo nội dung còn lại để gửi đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
 b. Trường hợp đơn có nhiều nội dung nhưng đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát nhân dân cấp mình, mà từng nội dung này lại do các đơn vị khác nhau xem xét, thì đơn vị Khiếu tố đề xuất bằng văn bản với Viện trưởng để phân công trách nhiệm chủ trì và phối hợp giữa các đơn vị trong việc giải quyết đơn và trả lời người gửi đơn.
4. Xử lý đơn đề nghị, kiến nghị, phản ánh, yêu cầu.
a. Đối với đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật, thì xử lý theo quy định tại Thông tư liên tịch số 02/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 15/10/2013, Thông tư liên tịch số 03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 15/10/2013 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Công văn số 4585/VKSTC-V7 ngày 27/12/2013 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
b. Đối với đơn đề nghị kiểm tra lại quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật quy định tại Khoản 3, Điều 2 Quy chế này, thì xử lý theo quy định tại Điều 14 Quy chế này.
        c. Đối với đơn đề nghị, kiến nghị, phản ánh, yêu cầu thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát nhân dân cấp mình, thì đơn vị Khiếu tố  chuyển đến các đơn vị có liên quan để xem xét; trường hợp đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát nhân dân khác, thì chuyển đơn cho Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền, đồng thời có văn bản báo tin cho người gửi đơn biết.
d. Đối với đơn đề nghị, kiến nghị, phản ánh, yêu cầu không thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát nhân dân, thì trả lại công dân và hướng dẫn họ gửi đơn đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
5. Xử lý đơn chưa đủ điều kiện hoặc không đủ điều kiện
a. Đối với đơn chưa đủ điều kiện để thụ lý, thì phải có văn bản chỉ dẫn cho người gửi đơn cung cấp bổ sung tài liệu có liên quan.
b. Đối với đơn không đủ điều kiện thụ lý, thì trả lại đơn và có văn bản trả lời rõ lý do cho người gửi đơn. Việc trả lời này chỉ thực hiện một lần cho một việc.
c. Không xem xét đối với đơn tố cáo giấu tên, mạo tên, không rõ địa chỉ, không có chữ ký trực tiếp hoặc những đơn tố cáo đã được cấp có thẩm quyền xem xét, kết luận mà tố cáo tiếp nhưng không có thêm tài liệu, chứng cứ mới.
-Bỏ cụm từ “khiếu nại, tố cáo” sau từ đơn, để chỉ việc xử lý đơn nói chung.
- Quy chế trước đây quy định hai loại đơn khiếu nại, tố cáo thuộc “thẩm quyền giải quyết” và thuộc “trách nhiệm kiểm sát” việc giải quyết của Viện kiểm sát. Hiện nay, Luật tổ chức VKSND 2014 không quy định đơn khiếu nại, tố cáo thuộc “trách nhiệm kiểm sát” việc giải quyết của Viện kiểm sát nữa, mà quy định là đơn thuộc “thẩm quyền kiểm sát” việc giải quyết của Viện kiểm sát. Do đó, đối với hai loại đơn này, Dự thảo Quy chế cũng quy định rõ như Luật tổ chức VKSND; đồng thời quy định rõ: đối với đơn thuộc “thẩm quyền giải quyết” thì thụ lý để giải quyết, đối với đơn thuộc “trách nhiệm kiểm sát” việc giải quyết thì cũng “chuyển thụ lý” nhưng để thực hiện “thẩm quyền kiểm sát” việc giải quyết theo quy định (áp dụng các biện pháp kiểm sát tương ứng).
- Khoản 1 Điều luật cũ chưa quy định rõ việc xử lý đối với đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết và kiểm sát giải quyết. Do vậy trong dự thảo đưa vào điểm a để đảm bảo tính toàn diện hơn.
- Điểm a khoản 1 của điều luật cũ thành điểm b, được viết ngắn gọn lại. Tách phần chuyển đơn cho Viện kiểm sát khác thành một đoạn riêng. Bỏ thủ tục báo tin cho người khiếu nại trong trường hợp chuyển đơn cho Viện kiểm sát khác để phù hợp với Luật Khiếu nại.
- Điểm b điều luật cũ được chuyển xuống dưới viết cùng với phần xử lý đơn tố cáo ở khoản 3(xử lý đơn có niều nội dung), điểm c chuyển xuống khoản 5 (xử lý đơn chưa đủ điều kiện và đơn không đủ điều kiện để xử lý) để không bị trùng lặp.
- Khoản 2 điều luật cũ chưa quy định rõ việc xử lý đối với đơn tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết và kiểm sát giải quyết. Do vậy trong dự thảo đưa vào điểm a để đảm bảo tính toàn diện hơn.
- Điểm a khoản 2 của điều luật cũ thành điểm b. Thêm cụm từ “hoặc kiểm sát giải quyết” sau cụm từ “thẩm quyền giải quyết” cho đủ nghĩa hơn; thêm cụm “nếu có yêu cầu” vào cuối đoạn 1 điểm b để phù hợp với Luật Tố cáo. Thêm đoạn 2 điểm b khoản 2 về xử lý đơn thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát khác để cho cụ thể hơn.
- Điểm b khoản 2 điều luật cũ chuyển xuống dưới và viết gọn lại vào phần xử lý đơn có nhiều nội dung để dễ theo dõi và tránh trùng lặp.
- Điểm c được viết lại cho ngắn gọn, và phù hợp với quy định của BLTTHS.
- Điểm d khoản 2 chuyển xuống khoản 5 bỏ cụm từ “mà sao chụp chữ ký” bởi vì điều kiện “chữ ký trực tiếp” đã bao hàm ý nghĩa của cụm từ này rồi.
- Bỏ khoản 3 điều luật cũ vì luật không quy định phải thông báo cho cơ quan, người chuyển đơn trong quá trình tiếp nhận, xử lý đơn. Luật Khiếu nại có quy định việc thông báo thụ lý đơn cho người chuyển đơn, tuy nhiên Luật khiếu nại điều chỉnh trong lĩnh vực hành chính, không thuộc phạm vi điều chỉnh của quy chế này.
- Khoản 3 điều luật mới quy định việc xử lý đối với đơn đề nghị, kiến nghị, phản ánh: vì điều luật cũ chưa có nội dung này nên khoản này quy định cho đầy đủ hơn.
- Bỏ khoản 4 điều luật cũ vì nội dung này thuộc lĩnh vực quản lý Nhà nước về công tác Khiếu tố.
-Khoản 4 điều luật mới quy định về xử lý đơn có nhiều nội dung, việc quy định chung vào một khoản sẽ tránh được sự trùng lắp khi quy định xử lý đơn khiếu nại, tố cáo.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Điều 12. Nhiệm vụ của đơn vị Khiếu tố trong tiếp nhận, phân loại và xử lý khiếu nại, tố cáo
1. Tiếp nhận đầy đủ đơn khiếu nại, tố cáo từ các nguồn chuyển đến và phân loại, xử lý theo đúng quy định của pháp luật và Quy chế này, đồng thời ghi chép đầy đủ vào sổ quản lý và theo dõi khiếu nại, tố cáo theo mẫu do Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành (khiếu nại, tố cáo do các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức có chức năng giám sát, cơ quan báo chí chuyển đến phải ghi chép vào sổ theo dõi riêng).
2. Đối với đơn khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền, trách nhiệm thì chuyển ngay tới lãnh đạo viện phụ trách khối, các đơn vị có nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất, để có biện pháp giải quyết, đồng thời báo tin cho người có đơn biết. Trường hợp đơn khiếu nại không thuộc thẩm quyền thì trả lại đơn và chỉ dẫn cho người khiếu nại biết.
3. Đối với đơn tố cáo không thuộc thẩm quyền giải quyết thì chuyển đến cơ quan có thẩm quyền, đồng thời báo tin cho người có đơn biết.
4. Những tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thì chuyển ngay đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền giải quyết, đồng thời thông báo cho đơn vị liên quan hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố biết.
5. Hàng tuần, tháng đối chiếu số liệu thụ lý, kết quả giải quyết với các đơn vị, bộ phận thuộc Viện kiểm sát cấp mình để việc quản lý được đầy đủ và thống nhất. Đối với khiếu nại, tố cáo do các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức có chức năng giám sát, cơ quan báo chí chuyển đến phải đôn đốc các đơn vị liên quan có thông báo kết quả hoặc tiến độ giải quyết cho cơ quan, người chuyển đơn biết.
Bỏ
Bỏ điều này do đã được quy định cụ thể trong các Điều ở phần trên. 
Mục 2
Khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Khiếu nại và Giải quyết khiếu nại về tư pháp
Đặt lại tên mục cho phù hợp nội dung của mục này
 
Điều 13. Khiếu nại trong quản lý hành chính
Khiếu nại trong quản lý hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát gồm có:
1. Khiếu nại quyết định, hành vi hành chính của người có thẩm quyền trong Viện kiểm sát về tuyển dụng; phong thăng, bổ nhiệm; điều động, thuyên chuyển; nâng lương, điều chỉnh lương; hợp đồng lao động…
2. Khiếu nại quyết định kỷ luật của người có thẩm quyền trong Viện kiểm sát ban hành.
Bỏ
Bỏ điều 13, 14 vì Quy chế không điều chỉnh ở lĩnh vực hành chính.
 
Điều 14: Giải quyết khiếu nại trong quản lý hành chính
1. Thẩm quyền, thời hạn và thủ tục giải quyết khiếu nại quyết định, hành vi hành chính, giải quyết khiếu nại quyết định kỷ luật được thực hiện theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo và Nghị định số 53/2005/NĐ-CP ngày19/4/2005 của Chính Phủ
2.Theo sự phân công của Viện trưởng và trong phạm vi nhiệm vụ của mình, Ban thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đơn vị tổ chức- cán bộ, thủ trưởng các đơn vị liên quan có trách nhiệm nghiên cứu, đề xuất hướng giải quyết khiếu nại quyết định, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật.
Bỏ.
 
 
Điều 15. Khiếu nại trong hoạt động tư pháp
Khiếu nại trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của Viện kiểm sát gồm có:
1. Khiếu nại trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự.
2. Khiếu nại trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự; kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, lao động, kinh doanh, thương mại và những việc khác theo quy định của pháp luật.
3. Khiếu nại trong hoạt động kiểm sát việc thi hành án.
4. Khiếu nại trong hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù.
5. Khiếu nại trong hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương.
6. Khiếu nại trong hoạt động kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp.
7. Khiếu nại về bồi thường thiệt hại theo Nghị quyết số 388.
Điều 12. Thẩm quyền, thời hạn giải quyết khiếu nại về hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân
1. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong tố tụng hình sự được thực hiện theo quy định tại Chương 35 Bộ luật tố tụng hình sự, gồm: khiếu nại hành vi, quyết định tố tụng của người có thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự; khiếu nại hành vi, quyết định tố tụng của Thủ trưởng Cơ quan điều tra; khiếu nại kết quả giải quyết của Thủ trưởng Cơ quan điều tra đối với khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Điều tra viên, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra; khiếu nại hành vi, quyết định tố tụng của người có thẩm quyền thuộc cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; khiếu nại trong hoạt động tạm giữ, tạm giam.
2. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong tố tụng dân sự được áp dụng theo quy định tại Chương 33 Bộ luật tố tụng dân sự, gồm: khiếu nại hành vi, quyết định tố tụng của người có thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng dân sự.
3. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong tố tụng hành chính được áp dụng theo quy định tại Chương 37 Luật tố tụng hành chính, gồm: khiếu nại hành vi, quyết định tố tụng của người có thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hành chính.
4. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong thi hành án hình sự được áp dụng theo quy định tại Chương 13 Luật thi hành án hình sự, gồm: Khiếu nại hành vi, quyết định quản lý, giáo dục phạm nhân của người được giao quản lý, giáo dục phạm nhân.
5. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại khác về hoạt động tư pháp không thuộc các Khoản 1, Khoản 2, Khoản 3, Khoản 4 Điều này được quy định như sau:
a. Khiếu nại hành vi, quyết định của Kiểm sát viên, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân cấp nào do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp đó giải quyết. Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với kết quả giải quyết mà khiếu nại tiếp, thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp giải quyết. Việc giải quyết của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp là giải quyết cuối cùng;
b. Khiếu nại hành vi, quyết định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp giải quyết. Việc giải quyết của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp là giải quyết cuối cùng;
c. Trong mọi trường hợp, việc giải quyết khiếu nại của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là giải quyết cuối cùng.
       6. Thời hạn giải quyết khiếu nại về hoạt động tư pháp được áp dụng theo quy định của pháp luật trong các lĩnh vực tương ứng.
 - Gộp điều 15, 16 của quy chế cũ thành Điều 12 mới với tên gọi ghép là Thẩm quyền, thời hạn giải quyết khiếu nại về hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân, nội dung điều luật này tiếp thu quy định của Điều 29 Luật tổ chức VKSND mới.
-Giữ nguyên khoản 4 điều 16 cũ và được chuyển thành khoản 5 của Điều 12 mới. Bởi vì điều luật quy định để giải quyết những khiếu nại mà hiện pháp luật chưa dự liệu hết, do vậy vẫn còn phù hợp.
Điều 16. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong hoạt động tư pháp
1. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong tố tụng hình sự được thực hiện theo quy định tại Chương XXXV Bộ luật Tố tụng hình sự và Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT-VKSTC-TATC-BCA-BQP-BTP ngày 10/8/2005 hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về khiếu nại, tố cáo.
2. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong tố tụng dân sự được áp dụng theo quy định tại chương XXXIII Bộ luật Tố tụng dân sự và Thông tư liên tịch số 03/2005/TTLT-VKSTC-TATC ngày 1/9/2005 hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự và sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ việc dân sự.
3. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án và đề nghị người có thẩm quyền thuộc Viện kiểm sát kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm được thực hiện theo quy định tại các điều 275, 293 Bộ luật Tố tụng hình sự và các điều 285, 307 Bộ luật Tố tụng dân sự.
4. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại khác:
a) Khiếu nại quyết định, hành vi của Kiểm sát viên, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát do Viện trưởng Viện kiểm sát giải quyết; trường hợp người khiếu nại không đồng ý với kết quả giải quyết mà khiếu nại tiếp thì Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp giải quyết. Việc giải quyết của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là giải quyết cuối cùng;
b) Khiếu nại quyết định, hành vi của Viện trưởng Viện kiểm sát do Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp giải quyết. Việc giải quyết của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là giải quyết cuối cùng;
c) Khiếu nại quyết định, hành vi của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Thủ trưởng Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao giải quyết. Việc giải quyết của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là giải quyết cuối cùng;
d) Khiếu nại quyết định, hành vi của Kiểm sát viên, Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương do Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương giải quyết. Việc giải quyết của Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương là giải quyết cuối cùng.
Gộp cùng điều 15
 
Điều 17. Thủ tục giải quyết khiếu nại trong hoạt động tư pháp
1. Khiếu nại liên quan đến phạm vi trách nhiệm của đơn vị nào thì đơn vị đó phải thụ lý và nghiên cứu, đề xuất hướng giải quyết.
Thủ trưởng các đơn vị, bộ phận trong Viện kiểm sát phải phân công cán bộ, kiểm tra viên, kiểm sát viên xác minh làm rõ nội dung khiếu nại.
Cán bộ, Kiểm tra viên, Kiểm sát viên được phân công xác minh khiếu nại phải xây dựng kế hoạch xác minh và thực hiện nhiệm vụ đúng kế hoạch đã được thủ trưởng đơn vị phê duyệt. Sau khi xác minh, người được phân công phải đề xuất hướng giải quyết bằng văn bản và phải chịu trách nhiệm cá nhân về việc đề xuất của mình.
2. Thời hạn giải quyết khiếu nại trong hoạt động tư pháp được thực hiện như sau:
a) Thời hạn giải quyết khiếu nại trong Tố tụng hình sự, Tố tụng dân sự được thực hiện theo quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự. Riêng thời hạn giải quyết khiếu nại và đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm được tính theo thời hiệu kháng nghị;
b) Thời hạn giải quyết các khiếu nại khác trong hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát được thực hiện theo quy định tại các văn bản pháp luật liên quan; trường hợp không có văn bản pháp luật qui định cụ thể, thì thời hạn giải quyết được tính theo thời hạn của giai đoạn tố tụng trực tiếp liên quan.
3. Quy trình giải quyết khiếu nại trong hoạt động tư pháp được thực hiện theo các quy chế công tác liên quan, song cần đảm bảo các thủ tục chủ yếu sau:
a) Phải thực hiện gặp gỡ, đối thoại trực tiếp với người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền, lợi ích liên quan để làm rõ nội dung khiếu nại, yêu cầu của người khiếu nại và hướng giải quyết khiếu nại; việc gặp gỡ, đối thoại phải tiến hành công khai, dân chủ.
Trường hợp giải quyết cuối cùng, hoặc trong trường hợp khiếu nại là vụ, việc phức tạp, đông người, gay gắt, kéo dài, thì việc gặp gỡ, đối thoại trực tiếp chỉ thực hiện khi thấy cần thiết. Việc gặp gỡ, đối thoại được tiến hành như lần đầu;
Việc gặp gỡ, đối thoại phải được lập thành biên bản. Biên bản này được lưu vào hồ sơ giải quyết khiếu nại.
b) Việc giải quyết khiếu nại phải được thể hiện bằng văn bản. Văn bản giải quyết khiếu nại phải có các nội dung cơ bản sau đây:
- Ngày, tháng, năm ban hành văn bản;
- Tên, địa chỉ của người khiếu nại, người bị khiếu nại;
- Nội dung khiếu nại;
- Căn cứ pháp luật để giải quyết khiếu nại;
- Nội dung giải quyết;
- Quyền khiếu nại tiếp (nếu là giải quyết cuối cùng thì phải ghi rõ).
Văn bản giải quyết khiếu nại phải được gửi đến người khiếu nại, người bị khiếu nại và người có quyền, lợi ích liên quan.
c) Việc giải quyết khiếu nại phải được lập thành hồ sơ. Hồ sơ giải quyết khiếu nại gồm các tài liệu chủ yếu sau đây:
- Đơn khiếu nại;
- Văn bản phân công người giải quyết khiếu nại; kế hoạch xác minh;
- Các tài liệu có liên quan đến việc khiếu nại; kết quả xác minh;
- Văn bản giải quyết khiếu nại.
Hồ sơ giải quyết khiếu nại phải được đánh số trang theo thứ tự tài liệu và được lưu giữ theo qui định của pháp luật.
Điều 13. Phân công nhiệm vụ, thủ tục giải quyết khiếu nại về hoạt động tư pháp
1. Đơn vị Khiếu tố có nhiệm vụ chủ trì, phối hợp với các đơn vị nghiệp vụ khác tham mưu giúp Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp mình giải quyết khiếu nại về hoạt động tư pháp theo quy định của Quy chế này.
2. Các đơn vị nghiệp vụ khác có nhiệm vụ cung cấp các tài liệu liên quan đến nội dung khiếu nại theo đề nghị của đơn vị Khiếu tố; giải trình về hành vi, quyết định bị khiếu nại.
3. Thủ tục giải quyết khiếu nại về hoạt động tư pháp bao gồm các bước cơ bản như sau:
a. Ra quyết định phân công người xác minh khiếu nại; việc xác minh phải có kế hoạch xác minh được phê duyệt; kết thúc xác minh phải có báo cáo kết quả xác minh nội dung khiếu nại và đề xuất hướng giải quyết khiếu nại.
b. Trong trường hợp kết quả xác minh nội dung khiếu nại và yêu cầu của người khiếu nại còn khác nhau, thì phải tổ chức đối thoại với người khiếu nại, người bị khiếu nại, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để làm rõ nội dung khiếu nại; việc đối thoại phải tiến hành công khai, dân chủ và phải lập biên bản; kết quả đối thoại là một trong các căn cứ để giải quyết khiếu nại.
c. Ra quyết định giải quyết khiếu nại.
d. Việc sử dụng các văn bản trong quá trình giải quyết khiếu nại phải theo mẫu do Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định.
 đ. Việc giải quyết khiếu nại phải được lập hồ sơ. Hồ sơ giải quyết khiếu nại phải có đơn khiếu nại hoặc bản ghi lời khiếu nại;quyết định phân công người xác minh; kế hoạch xác minh; tài liệu, chứng cứ do các bên cung cấp; báo cáo kết quả xác minh nội dung khiếu nại; biên bản tổ chức đối thoại (nếu có); quyết định giải quyết khiếu nại; các tài liệu khác có liên quan. Hồ sơ giải quyết khiếu nại phải được đánh số trang theo thứ tự tài liệu và lưu giữ theo quy định của pháp luật.                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                        
 
- Điều 17 được chuyển thành Điều 13 quy định về phân công nhiệm vụ cụ thể cho đơn vị Khiếu tố và các đơn vị nghiệp vụ trong giải quyết khiếu nại; thủ tục cơ bản phải thực hiện khi giải quyết khiếu nại.
- Khoản 1 quy định nhiệm vụ chủ trì, phối hợp (giữ vai trò chính) trong giải quyết khiếu nại cho đơn vị Khiếu tố. Quy định này trên cơ sở Đề án đổi mới công tác Khiếu tố của Ngành và Kế hoạch số 09 ngày 4/8/2014 của Ban Cán sự đảng VKSNDTC
- Khoản 2 quy định nhiệm vụ phối hợp của các đơn vị nghiệp vụ khác theo đề nghị của đơn vị Khiếu tố trong giải quyết khiếu nại.
- Khoản 3 quy định các thủ tục cơ bản của việc giải quyết khiếu nại, trên cơ sở kế thừa quy định của Quy chế cũ và tiếp thu quy định mới phù hợp của Luật khiếu nại.
 
 
 
Điều 14.(bổ sung mới). Xử lý đơn đề nghị kiểm tra lại quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật
1. Về điều kiện kiểm tra đơn
Đơn đề nghị kiểm tra lại quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật chỉ được xem xét kiểm tra khi có một trong những điều kiện sau: đơn bức xúc, kéo dài; đơn có dấu hiệu oan, sai; đơn có sự chỉ đạo xem xét của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước; đơn được các cơ quan báo chí và dư luận quan tâm; đơn có liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị tại Trung ương và địa phương.
2. Về xử lý đơn
Đơn đề nghị xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật gửi đến Viện kiểm sát nhân dân các cấp qua tất cả các nguồn phải được tập trung tại một đầu mối để xử lý, quản lý là đơn vị Khiếu tố.
Sau khi xác định đơn đã đáp ứng điều kiện theo quy định tại Khoản 1, Điều này và thuộc thẩm quyền kiểm tra của Viện kiểm sát nhân dân cấp mình, thì đơn vị Khiếu tố báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp quyết định việc kiểm tra; nếu đơn thuộc thẩm quyền kiểm tra nhưng chưa đáp ứng điều kiện, thì lưu đơn để theo dõi, quản lý; nếu đơn không thuộc thẩm quyền kiểm tra của Viện kiểm sát nhân dân cấp mình, thì xử lý chuyển Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền theo quy định tại Khoản 3, Điều này.
3. Về trình tự kiểm tra
Đơn đề nghị kiểm tra lại quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới do Viện kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp kiểm tra.
Đơn đề nghị kiểm tra lại quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật của Cơ quan điều tra cấp nào do Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp xem xét.
Đơn đề nghị kiểm tra lại quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Viện kiểm sát nhân dân tối cao kiểm tra.
4. Về thủ tục kiểm tra
Đơn vị Khiếu tố chủ trì phối hợp với các đơn vị có liên quan tham mưu giúp Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp trong việc kiểm tra đơn.
Việc kiểm tra có thể áp dụng các biện pháp sau: kiểm tra lại hồ sơ giải quyết của cấp mình; yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới hoặc Cơ quan điều tra cùng cấp báo cáo việc giải quyết và gửi hồ sơ giải quyết để kiểm tra; tổ chức đối thoại với người khiếu nại, người bị khiếu nại, người giải quyết khiếu nại và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để nắm thông tin làm cơ sở kiểm tra; yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu, chứng cứ có liên quan đến việc giải quyết khiếu nại; tiến hành xác minh, lấy lời khai, trưng cầu giám định.v.v. (nếu thấy cần thiết).
Kết thúc việc kiểm tra, thực hiện như sau:
- Nếu quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật có căn cứ, đúng pháp luật, thì thông báo bằng văn bản kết quả kiểm tra cho người đã gửi đơn; nếu thấy cần thiết thì thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan;
- Nếu quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm hoặc có tình tiết mới làm thay đổi cơ bản nội dung giải quyết trước đó, thì tự mình hoặc chỉ đạo Viện kiểm sát cấp dưới hoặc kiến nghị Cơ quan điều tra cùng cấp sửa đổi, bổ sung quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật hoặc hủy bỏ quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật để giải quyết lại; đồng thời, thông báo bằng văn bản kết quả kiểm tra cho người đã gửi đơn; nếu thấy cần thiết thì thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
Việc kiểm tra và thông báo kết quả kiểm tra tại mỗi cấp Kiểm sát chỉ thực hiện một lần.
Bổ sung thêm Điều 14 mới về xử lý đơn đề nghị kiểm tra lại quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật trong hoạt động tư pháp. Việc bổ sung thêm quy định này trên cơ sở tinh thần mới tại Điều 9 Luật tiếp công dân năm 2013 về những trường hợp được từ chối tiếp công dân, gồm “…vụ việc đã giải quyết đúng chính sách, pháp luật, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, rà soát, thông báo bằng văn bản và đã được tiếp, giải thích, hướng dẫn nhưng vẫn cố tình khiếu nại, tố cáo kéo dài”. Như vậy, theo tinh thần của Điều luật thì chỉ được từ chối tiếp nhận những vụ việc khiếu nại đã được giải quyết đúng pháp luật (về hình thức, nội dung và có quyết định có hiệu lực pháp luật); đã được kiểm tra, rà soát lại và có thông báo bằng văn bản…”. Quy định trên nhằm khắc phục kịp thời, triệt để những vi phạm trong việc giải quyết khiếu nại về tư pháp thuộc thẩm quyền của VKSND; từ việc phát hiện và khắc phục vi phạm trong giải quyết khiếu nại, sẽ là cơ sở để kiểm tra, phát hiện và khắc phục vi phạm trong việc giải quyết các vụ án, vụ việc trong hoạt động tư pháp bị khiếu nại; hạn chế oan, sai; bảo đảm quyền con người, quyền dân chủ; đồng thời đề cao trách nhiệm của VKSND trong giải quyết các vụ việc, vụ án, các khiếu nại về tư pháp.
Cùng với việc xây dựng Dự thảo Quy chế 59 sửa đổi, Vụ 7 cũng xây dựng Dự thảo Quy định hướng dẫn xử lý đơn đề nghị kiểm tra lại quyết định giải quyết khiếu nại về tư pháp đã có hiệu lực pháp luật trong ngành Kiểm sát, đã xin ý kiến và về cơ bản đã được sự nhất trí của địa phương, các đơn vị nghiệp vụ và lãnh đạo Viện. Tuy nhiên, Vụ 7 thấy nên đưa nội dung của Dự thảo Quy định hướng dẫn xử lý đơn đề nghị kiểm tra lại quyết định giải quyết khiếu nại về tư pháp đã có hiệu lực pháp luật trong ngành Kiểm sát vào thành một điều của Dự thảo Quy chế 59 sửa đổi để đảm bảo tính thống nhất, thu gọn đầu mối văn bản, tránh tản mạn, không thuận tiện trong việc áp dụng.
 
 
Mục 3
Tố cáo và giải quyết tố cáo
Tố cáo và Giải quyết tố cáo về tư pháp
Sửa lại tên mục 3 cho phù hợp
 
Điều 18. Tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát
Tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát gồm có:
1. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động hành chính của cán bộ, công chức thuộc Viện kiểm sát;
2. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp của Kiểm tra viên, Kiểm sát viên, Phó Viện trưởng, Viện trưởng Viện kiểm sát.
3. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù;
4. Tố cáo hành vi tố tụng của những người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra.
 
Điều 15. Thẩm quyền, thời hạn giải quyết tố cáo về hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân.
1. Thẩm quyền giải quyết tố cáo trong tố tụng hình sự được thực hiện theo quy định tại Chương 35 Bộ luật tố tụng hình sự gồm: tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người có thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự; tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động của người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra; tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người có thẩm quyền trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam.
2. Thẩm quyền giải quyết tố cáo trong tố tụng dân sự được áp dụng theo quy định tại Chương 33 Bộ luật tố tụng dân sự gồm: tố cáo hành vi, quyết định tố tụng của người có thẩm quyền của Viện kiểm sát trong hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng dân sự.
3. Thẩm quyền giải quyết tố cáo trong tố tụng hành chính được áp dụng theo quy định tại Chương 17 Luật tố tụng hành chính gồm: tố cáo hành vi, quyết định tố tụng của người có thẩm quyền của Viện kiểm sát trong hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hành chính.
4. Thẩm quyền giải quyết tố cáo trong thi hành án hình sự được áp dụng theo quy định tại Chương 13 Luật Thi hành án hình sự gồm: tố cáo hành vi, quyết định quản lý, giáo dục phạm nhân của người được giao quản lý, giáo dục phạm nhân.
5. Thẩm quyền giải quyết các tố cáo khác về hoạt động tư pháp không thuộc các Khoản 1, Khoản 2, Khoản 3 và Khoản 4 Điều này gồm:
Tố cáo hành vi vi phạm của Kiểm sát viên, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp nào do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp đó giải quyết.
Tố cáo hành vi vi phạm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp giải quyết.
6. Thời hạn giải quyết tố cáo:
Thời hạn giải quyết tố cáo về hoạt động tư pháp được áp dụng theo quy định của pháp luật trong các lĩnh vực tương ứng.
.
Gộp Điều 18,19,20 của Quy chế cũ thành một Điều 15 mới có sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với quy định của Điều 29 Luật Tổ chức VKSND mới.
 
 
Điều 19. Thẩm quyền giải quyết tố cáo
1. Thẩm quyền giải quyết tố cáo trong hoạt động hành chính của Viện kiểm sát được thực hiện theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo và Nghị định số 53/2005/NĐ-CP ngày 19-4-2005 của Chính phủ.
2. Thẩm quyền giải quyết tố cáo trong hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát được thực hiện như sau:
a) Thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát, của người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra và giải quyết tố cáo liên quan đến việc áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam, được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự và các thông tư hướng dẫn liên quan;
b) Thẩm quyền giải quyết các tố cáo khác được thực hiện theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo. Riêng giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát có trách nhiệm kiểm sát nơi quản lý người chấp hành án phạt tù.
Bỏ
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Điều 20. Thời hạn và thủ tục giải quyết tố cáo
1. Thời hạn và thủ tục giải quyết tố cáo trong hoạt động hành chính của Viện kiểm sát được thực hiện theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo.
2. Thời hạn giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của Kiểm sát viên, Phó Viện trưởng, Viện trưởng Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và thời hạn giải quyết tố cáo liên quan đến việc bắt, tạm giữ, tạm giam được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự;
Thời hạn giải quyết tố cáo khác trong hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát được thực hiện theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo.
Bỏ
 
 
Điều 21. Quy trình giải quyết tố cáo trong hoạt động tư pháp
Quy trình giải quyết tố cáo trong hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát được thực hiện theo các quy chế công tác liên quan, song phải đảm bảo các thủ tục chủ yếu sau:
a) Xác minh, kết luận:
Viện trưởng Viện kiểm sát phải ra quyết định về việc tiến hành xác minh nội dung tố cáo; trong quyết định phải phân công người được giao nhiệm vụ xác minh, nội dung cần xác minh, thời gian xác minh, quyền hạn và trách nhiệm của người được giao nhiệm vụ xác minh.
Kết thúc việc xác minh, người được phân công xác minh phải có văn bản báo cáo về những nội dung tố cáo, xác định trách nhiệm của người có hành vi vi phạm pháp luật và đề xuất hướng giải quyết để Viện trưởng quyết định biện pháp xử lý. Người được phân công xác minh phải chịu trách nhiệm về nội dung xác minh và đề xuất của mình.
Trong quá trình xác minh, giải quyết tố cáo, nếu thấy có dấu hiệu tội phạm thì phải chuyển đơn tố cáo và tài liệu, chứng cứ liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.
b) Việc giải quyết tố cáo phải được lập thành hồ sơ. Hồ sơ giải quyết tố cáo gồm các tài liệu chính sau đây:
- Đơn tố cáo;
- Quyết định về việc tiến hành xác minh; kế hoạch, nội dung xác minh;
- Các tài liệu có liên quan đến việc tố cáo; kết quả xác minh;
- Kết luận nội dung tố cáo, các kiến nghị, quyết định xử lý (nếu có);
- Thông báo kết quả giải quyết tố cáo cho người tố cáo.
Hồ sơ giải quyết tố cáo phải được đánh số trang theo thứ tự tài liệu và được lưu giữ theo qui định của pháp luật.
 
Điều 16. Phân công nhiệm vụ, thủ tục giải quyết tố cáo về hoạt động tư pháp
1. Đơn vị Khiếu tố có nhiệm vụ chủ trì phối hợp với các đơn vị nghiệp vụ khác tham mưu giúp Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp mình giải quyết tố cáo về hoạt động tư pháp theo quy định của Quy chế này.
2. Các đơn vị nghiệp vụ khác có nhiệm vụ cung cấp các tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo theo đề nghị của đơn vị Khiếu tố; giải trình về hành vi, quyết định bị tố cáo.
3. Thủ tục giải quyết tố cáo về hoạt động tư pháp bao gồm các bước cơ bản như sau:
a. Ra quyết định phân công người xác minh tố cáo; việc xác minh phải có kế hoạch xác minh được phê duyệt; kết thúc xác minh phải có báo cáo kết quả xác minh nội dung tố cáo và đề xuất hướng giải quyết tố cáo.
b. Ra kết luận về nội dung tố cáo; áp dụng các biện pháp xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị biện pháp xử lý với cơ quan, cá nhân có thẩm quyền (nếu có). Kết luận về nội dung tố cao phải được gửi cho Viện kiểm sát nhân dân cấp trên và người bị tố cáo. Trong trường hợp người tố cáo có yêu cầu thông báo kết quả giải quyết tố cáo, thì gửi thông báo bằng văn bản về kết quả giải quyết tố cáo cho người tố cáo.
c. Trong quá trình xác minh, giải quyết tố cáo, nếu thấy có dấu hiệu tội phạm thì phải chuyển đơn tố cáo và tài liệu, chứng cứ liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.
d. Việc sử dụng các văn bản trong quá trình giải quyết tố cáo phải theo mẫu do Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định.
đ. Việc giải quyết tố cáo phải được lập hồ sơ. Hồ sơ giải quyết tố cáo phải có đơn tố cáo hoặc bản ghi lời tố cao; quyết định phân công người xác minh tố cao; kế hoạch xác minh; báo cáo kết quả xác minh nội dung tố cáo; kết luận nội dung tố cáo; các kiến nghị, biện pháp xử lý (nếu có); thông báo kết quả giải quyết tố cáo (nếu có); các tài liệu khác có liên quan. Hồ sơ giải quyết tố cáo phải được đánh số trang theo thứ tự tài liệu và được lưu giữ theo qui định của pháp luật.
Sửa Điều 21 cũ thành Điều 16 mới và sửa đổi, bổ sung toàn bộ nội dung cho ngắn gọn hơn và phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành
Chương 4
Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp
Tên của chương này cần thêm cụm từ “về tư pháp” để để phù hợp với phần giải thích từ ngữ trong Quy chế
 
Điều 22. Nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm thực hiện việc kiểm sát
Viện kiểm sát nhân dân các cấp có trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về các hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp cùng cấp và cấp dưới (Cơ quan điều tra, Toà án, cơ quan Thi hành án, cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra) theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và thi hành án.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp, trong phạm vi nhiệm vụ của mình và căn cứ vào tình hình thực tế, phân công đơn vị Khiếu tố và các đơn vị nghiệp vụ khác thực hiện kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp theo quy định tại Quy chế này.
Để thực hiện kiểm sát, các đơn vị được phân công có trách nhiệm:
a) Tham mưu, giúp Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân về công tác kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp của các cơ quan tư pháp;
b) Yêu cầu các cơ quan tư pháp cùng cấp và cấp dưới giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân;
c) Xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ liên quan đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan tư pháp để xác định vi phạm pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp của cơ quan tư pháp;
d) Nghiên cứu hồ sơ tài liệu liên quan đến việc giải quyết khiếu nại do các cơ quan tư pháp cung cấp để phát hiện, tổng hợp vi phạm pháp luật (về cả hai mặt thủ tục giải quyết và nội dung giải quyết) của các cơ quan này trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về các hoạt động tư pháp, để tham mưu với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân ban hành kháng nghị, kiến nghị về các biện pháp khắc phục.
Điều 17. Thẩm quyền, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm thực hiện việc kiểm sát
1. Viện kiểm sát nhân dân các cấp có trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về các hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp có thẩm quyền cùng cấp và cấp dưới (Cơ quan điều tra, Toà án, cơ quan Thi hành án, cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra) theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và thi hành án.
2. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp, trong phạm vi nhiệm vụ của mình, và căn cứ vào tình hình thực tế, phân công Đơn vị Khiếu tố chủ trì phối hợp với các đơn vị nghiệp vụ khác thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp theo quy định tại Quy chế này.
3. Đơn vị Khiếu tố có nhiệm vụ:
a. Tham mưu, giúp Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thực hiện việc kiểm sát theo quy định tại Điều 23, Điều 24 Quy chế này;
b. Khi thấy cần thiết thì đề nghị các đơn vị nghiệp vụ cùng cấp hoặc yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới phối hợp:
- Cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc kiểm sát;
- Trao đổi ý kiến trực tiếp hoặc bằng văn bản để xác định dấu hiệu vi phạm hoặc kết luận vi phạm của các cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp;
- Lựa chọn áp dụng các biện pháp kiểm sát tương ứng và ban hành các văn bản trong hoạt động kiểm sát.
c. Chủ trì và đề nghị các đơn vị nghiệp vụ cùng cấp hoặc yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới phối hợp cử Kiểm sát viên tham gia khi tiến hành các cuộc kiểm sát trực tiếp việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp
4. Các đơn vị nghiệp vụ khác có nhiệm vụ:
a. Phối hợp thực hiện đầy đủ, kịp thời theo đề nghị của đơn vị Khiếu tố được quy định tại Khoản 3 Điều này;
b. Trường hợp phát hiện vi phạm của các cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp thông qua thực hiện công tác chuyên môn, nghiệp vụ của mình, phải chủ động thông báo và kịp thời phối hợp với đơn vị Khiếu tố để thực hiện nhiệm vụ kiểm sát theo quy định.
Để thực hiện kiểm sát, các đơn vị được phân công có trách nhiệm:
a) Tham mưu, giúp Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân về công tác kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp của các cơ quan tư pháp;
b) Yêu cầu các cơ quan tư pháp cùng cấp và cấp dưới giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân;
c) Xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ liên quan đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan tư pháp để xác định vi phạm pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp của cơ quan tư pháp;
d) Nghiên cứu hồ sơ tài liệu liên quan đến việc giải quyết khiếu nại do các cơ quan tư pháp cung cấp để phát hiện, tổng hợp vi phạm pháp luật (về cả hai mặt thủ tục giải quyết và nội dung giải quyết) của các cơ quan này trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về các hoạt động tư pháp, để tham mưu với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân ban hành kháng nghị, kiến nghị về các biện pháp khắc phục
- Điều 22 cũ được chuyển thành Điều 17 mới và được sửa đổi lại tên gọi cho phù hợp với các nội dung của Điều này.
- Đoạn 1 (cũ) được chuyển thành Khoản 1 (mới); bỏ từ “trách nhiệm” và thêm cụm từ “có thẩm quyền” để phù hợp với tinh thần mới của Luật tổ chức VKSND sửa đổi; bỏ phần liệt kê các cơ quan tư pháp vì không cần thiết.
- Đoạn 2 (cũ) chuyển thành Khoản 2 (mới) sửa đổi, bổ sung để xác định rõ đơn vị Khiếu tố chịu trách nhiệm chính (chủ trì) trong tham mưu giúp Viện trưởng về công tác kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp, các đơn vị nghiệp vụ khác có nhiệm vụ phải phối hợp với đơn vị Khiếu tố. Về nội dung này, do Điều 22 Quy chế 59 cũ chưa quy định cụ thể về việc Viện trưởng Viện kiểm sát phân công nhiệm vụ cho đơn vị Khiếu tố hay các đơn vị nghiệp vụ thực hiện công tác kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Chính vì vậy, Quyết định số 487 được ban hành để quy định cụ thể hơn về nhiệm vụ kiểm sát, theo đó thì việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp của cơ quan tư pháp thuộc lĩnh vực nào thì đơn vị nghiệp vụ tương ứng sẽ thực hiện trách nhiệm kiểm sát, đơn vị Khiếu tố cũng thực hiện trách nhiệm kiểm sát trong tất cả các lĩnh vực, nhưng chỉ trong từng thời kỳ (6 tháng, 1 năm). Nhưng theo tinh thần mới đã nêu trên thì đơn vị Khiếu tố sẽ chịu trách nhiệm chính trong công tác kiểm sát, các đơn vị nghiệp vụ khác chỉ có nhiệm vụ phối hợp theo đề nghị của đơn vị Khiếu tố. Do đó Quyết định 487 hiện nay sẽ không phù hợp, sẽ được thay thế bằng Quy chế mới này.
- Đoạn 3 (cũ) chuyển thành Khoản 3 (mới) và Khoản 4 (mới); quy định cụ thể nhiệm vụ của đơn vị Khiếu tố và các đơn vị nghiệp vụ; những nội dung của Đoạn 3 (cũ) được loại bỏ, vì:
+ Điểm a (cũ) đã được chuyển sang và sửa đổi  tại Điểm a của Khoản 3 (mới);
+ Các Điểm b, c, d (cũ) thực chất là những biện pháp kiểm sát và các thao tác nghiệp vụ đã được quy định rõ tại Điều 23 và Điều 24, nên không cần giữ lại.
- Khoản 3 và Khoản 4 mới quy định rõ và phân biệt nhiệm vụ của đơn vị Khiếu tố với các đơn vị nghiệp vụ khác.
 
Điều 23. Trình tự, thủ tục trong thực hiện kiểm sát
1. Các biện pháp được áp dụng trong việc kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp gồm có:
a) Yêu cầu cơ quan tư pháp ra văn bản giải quyết khiếu nại, tố cáo;
b) Yêu cầu cơ quan tư pháp kiểm tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cấp mình, cấp dưới và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân;
c) Yêu cầu cơ quan tư pháp cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan đến giải quyết khiếu nại, tố cáo cho Viện kiểm sát nhân dân;
d) Trực tiếp kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan tư pháp (chỉ áp dụng trong kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự).
2. Điều kiện áp dụng và trình tự thực hiện các biện pháp kiểm sát được quy định như sau:
a) Việc yêu cầu cơ quan tư pháp ra văn bản giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện thuộc một trong các trường hợp sau:
- Viện kiểm sát nhân dân nhận được khiếu nại, tố cáo việc cơ quan tư pháp không ra văn bản giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thời hạn quy định hoặc đã giải quyết nhưng không ban hành văn bản giải quyết;
- Viện kiểm sát nhân dân có cơ sở xác định cơ quan tư pháp không ra văn bản giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thời hạn quy định hoặc đã giải quyết nhưng không ban hành văn bản giải quyết.
b) Việc yêu cầu cơ quan tư pháp kiểm tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cấp mình và cấp dưới, thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân được thực hiện khi Viện kiểm sát nhân dân có cơ sở xác định cơ quan tư pháp không thực hiện yêu cầu ra văn bản giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc một trong các trường hợp sau:
- Viện kiểm sát nhân dân nhận được yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền;
- Viện kiểm sát nhân dân nhận được đơn khiếu nại, tố cáo về vi phạm pháp luật của cơ quan tư pháp trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo;
- Viện kiểm sát nhân dân có cơ sở xác định cơ quan tư pháp có vi phạm pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo;
c) Việc yêu cầu cơ quan tư pháp cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện trong các trường hợp cơ quan tư pháp không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các yêu cầu của Viện kiểm sát nhân dân được quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều này.
d) Việc trực tiếp kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan tư pháp chỉ tiến hành trong tố tụng hình sự và chỉ thực hiện khi qua nghiên cứu hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo được cung cấp theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều này thấy việc giải quyết chưa thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
Điều 18. Trình tự, thủ tục trong thực hiện Các biện pháp kiểm sát căn cứ,điều kiện áp dụng; việc ban hành kết luận, kiến nghị, kháng nghị và kiểm tra việc thực hiện kiến nghị, kháng nghị.
1. Các biện pháp được áp dụng trong việc kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp gồm có:
a. Yêu cầu cơ quan tư pháp có thẩm quyền ra văn bản giải quyết khiếu nại, tố cáo;
b. Yêu cầu cơ quan tư pháp có thẩm quyền kiểm tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cấp mình, cấp dưới và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân;
c. Yêu cầu cơ quan tư pháp có thẩm quyền cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan đến giải quyết khiếu nại, tố cáo cho Viện kiểm sát nhân dân;
d. Trực tiếp kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan tư pháp có thẩm quyền (chỉ áp dụng trong kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự).
2. Điều kiện Căn cứ áp dụng và trình tự thực hiện các biện pháp kiểm sát được quy định như sau:
a. Có cơ sở xác định dấu hiệu vi phạm hoặc có căn cứ kết luận vi phạm trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp;
b. Theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền.
3. Điều kiện áp dụng các biện pháp kiểm sát được quy định như sau:
a. Trong tố tụng hình sự và thi hành án hình sự được áp dụng tất cả các biện pháp kiểm sát; trong tố tụng dân sự và tố tụng hành chính được áp dụng các biện pháp quy định tại Điểm a và Điểm b, Khoản 1, Điều này; trong thi hành án dân sự được áp dụng các biện pháp quy định tại Điểm a, Điểm b và Điểm c, Khoản 1, Điều này;
b. Các biện pháp kiểm sát phải được thực hiện bằng văn bản, có thể được áp dụng đối với một hoặc một số vụ, việc cụ thể hoặc trong một thời điểm nhất định.
a. Việc yêu cầu cơ quan tư pháp ra văn bản giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện thuộc một trong các trường hợp sau:
- Viện kiểm sát nhân dân nhận được khiếu nại, tố cáo việc cơ quan tư pháp không ra văn bản giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thời hạn quy định hoặc đã giải quyết nhưng không ban hành văn bản giải quyết;
- Viện kiểm sát nhân dân có cơ sở xác định cơ quan tư pháp không ra văn bản giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thời hạn quy định hoặc đã giải quyết nhưng không ban hành văn bản giải quyết.
b) Việc yêu cầu cơ quan tư pháp kiểm tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cấp mình và cấp dưới, thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân được thực hiện khi Viện kiểm sát nhân dân có cơ sở xác định cơ quan tư pháp không thực hiện yêu cầu ra văn bản giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc một trong các trường hợp sau:
- Viện kiểm sát nhân dân nhận được yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền;
- Viện kiểm sát nhân dân nhận được đơn khiếu nại, tố cáo về vi phạm pháp luật của cơ quan tư pháp trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo;
- Viện kiểm sát nhân dân có cơ sở xác định cơ quan tư pháp có vi phạm pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo;
c) Việc yêu cầu cơ quan tư pháp cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện trong các trường hợp cơ quan tư pháp không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các yêu cầu của Viện kiểm sát nhân dân được quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều này.
d) Việc trực tiếp kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan tư pháp chỉ tiến hành trong tố tụng hình sự và chỉ thực hiện khi qua nghiên cứu hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo được cung cấp theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều này thấy việc giải quyết chưa thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
4. Việc ban hành kết luận, kiến nghị, kháng nghị được quy định như sau:
a. Sau khi kết thúc các biện pháp kiểm sát quy định tại Điểm a, Điểm b, Điểm c, Khoản 1 Điều này và có căn cứ kết luận vi phạm trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp, thì ban hành kiến nghị;
b. Thông qua nghiên cứu đơn, văn bản yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền hoặc các nguồn thông tin khác và hồ sơ, tài liệu liên quan, nếu có căn cứ kết luận vi phạm trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp, thì có thể ban hành kiến nghị ngay, nếu xét thấy không cần thiết phải áp dụng các biện pháp kiểm sát;
c. Kết thúc biện pháp trực tiếp kiểm sát phải ban hành kết luận về kết quả kiểm sát; nếu có căn cứ kết luận vi phạm trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp, thì tùy từng trường hợp tiếp tục ban hành kiến nghị hoặc kháng nghị;
d. Sau khi áp dụng các biện pháp kiểm sát hoặc kết thúc kiểm tra việc thực hiện kiến nghị, kháng nghị và có cơ sở xác định cơ quan được kiểm sát không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, trừ trường hợp có lý do khách quan và phải được cơ quan được kiểm sát thông báo bằng văn bản, thì ban hành kiến nghị gửi cơ quan cấp trên trực tiếp của cơ quan được kiểm sát để có biện pháp quản lý, đôn đốc việc thực hiện, nếu xét thấy cần thiết.
5. Kiểm tra việc thực hiện kiến nghị, kháng nghị được quy định như sau:
a. Các kiến nghị, kháng nghị đã ban hành đều phải được tiến hành kiểm tra việc thực hiện, trừ trường hợp kiến nghị được ban hành theo quy định tại Điểm d, Khoản 4, Điều này;
b. Việc kiểm tra phải xây dựng kế hoạch và ban hành quyết định; kết thúc kiểm tra phải có kết luận.
- Điều 23 cũ được chuyển thành Điều 18 cũ, sửa đổi tên Điều cho phù hợp với nội dung các khoản bên dưới.
- Khoản 1 về cơ bản được giữ nguyên vì vẫn phù hợp với pháp luật hiện hành, chỉ bỏ phần cuối điểm d, vì sau này sẽ đưa vào phần điều kiện áp dụng các biện pháp kiểm sát; thay từ “tư pháp” bằng từ “có thẩm quyền” cho phù hợp.
- Khoản 2 được sửa tên gọi thành “căn cứ” áp dụng các biện pháp để phân biệt với “điều kiện” áp dụng các biện pháp kiểm sát được quy định tại khoản 3. Việc quy định như Khoản 2 cũ chưa phân biệt được “căn cứ” khác với “điều kiện” để áp dụng các biện pháp kiểm sát. Trong Khoản này đã sửa đổi theo hướng quy định ngắn gọn căn cứ để áp dụng tất các biện pháp chỉ bao gồm: một là, có cơ sở xác định cơ quan tư pháp có dấu hiệu vi phạm trong giải quyết khiếu nại, tố cáo; hai là, theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền. Quy định như vậy là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật và ngắn gọn nhưng vẫn đầy đủ, tạo điều kiện để Viện kiểm sát nhân dân các cấp chủ động và linh hoạt trong việc áp dụng các biện pháp kiểm sát phù hợp nhằm đạt hiệu quả cao nhất, không cần thiết phải quy định như Khoản 2 cũ rất phức tạp, nhiều trình tự, thủ tục, bó hẹp quyền năng của Ngành, hạn chế tính linh hoạt trong việc áp dụng các biện pháp kiểm sát.
- Nội dung của  Khoản 2 cũ về điều kiện áp dụng các biện pháp kiểm sát được loại bỏ và thay thế bằng Khoản 3 mới. Khoản 3 mới quy định về những  điều kiện bổ sung cần thiết khác khi áp dụng các biện pháp kiểm sát (ngoài “căn cứ” phải có khi áp dụng các biện pháp kiểm sát được quy định tại khoản 2 mới). Trong đó bổ sung thêm quyền kiểm sát trực tiếp trong thi hành án hình sự; quy định rõ phương thức kiểm sát theo vụ việc hoặc kiểm sát theo thời điểm.
- Bổ sung thêm Khoản 4, Khoản 5 và Khoản 6 mới, theo hướng:
+ Quy định cụ thể về việc ban hành kiến nghị, kháng nghị và kết luận trong hoạt động kiểm sát; trong đó có sự kế thừa một số quy định của Điều 24 cũ, có sự phân biệt giữa kiến nghị, kháng nghị với kết luận, quy định rõ các trường hợp và điều kiện ban hành kiến nghị, kháng nghị và kết luận.
- Đối với việc ban hành kháng nghị, việc quy định chỉ giới hạn rõ lĩnh vực được ban hành kháng nghị là trong tố tụng hình sự và thi hành án hình sự; còn về căn cứ để ban hành kháng nghị trong công tác kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo  hiện nay luật chưa có quy định cụ thể, ngay cả việc căn cứ vào mức độ, tính chất vi phạm như thế nào để ban hành kiến nghị hay kháng nghị cũng chưa có hướng dẫn cụ thể. Do đó, Khoản này chỉ quy định là “tùy theo tính chất, mức độ của vi phạm” để các Viện kiểm sát nhân dân vận dụng linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế của mỗi cuộc kiểm sát.
 
+ Đối với việc ban hành kết luận, hiện nay trong các văn bản luật tương ứng trong các lĩnh vực không có quy định, mà mới chỉ được quy định tại Quyết định số 53 ngày 15/2/2012 của VKSNDTC về ban hành và sử dụng mẫu trong hoạt động khiếu tố (phần Hướng dẫn sử dụng Mẫu số 8). Thực tiễn cho thấy, vẫn có một số ít trường hợp kết thúc kiểm sát trực tiếp, Viện kiểm sát nhân dân không phát hiện được vi phạm hoặc trước đó có dấu hiệu vi phạm nhưng qua kiểm tra, xem xét thì không có căn cứ để kết luận vi phạm hoặc có phát hiện vi phạm nhưng tính chất, mức độ không đáng kể, ngoài ra, có một số trường hợp khi tiến hành kiểm sát, nếu làm rõ triệt để vi phạm, có thể phát sinh những vấn đề có tính chất “nhạy cảm” trong mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với các cơ quan được kiểm sát. Những trường hợp này không thể hoặc không cần thiết ban hành kiến nghị, kháng nghị, tuy nhiên, vẫn cần ban hành kết luận một cách linh hoạt về kết quả kiểm sát để kết thúc cuộc kiểm sát. Những trường hợp này có nguyên nhân cả chủ quan và khách quan, ví dụ: việc nắm dấu hiệu vi phạm chưa chắc, chưa toàn diện; buộc phải tiến hành kiểm sát mang tính hình thức nhằm đạt chỉ tiêu của Ngành; cơ quan được kiểm sát không tạo điều kiện, thiếu hợp tác gây khó khăn cho Viện kiểm sát nhân dân (như lấy lý do hồ sơ giải quyết khiếu nại, tố cáo đã nộp lưu trữ theo quy định, chưa mượn được); các quy định của pháp luật chưa rõ ràng, cụ thể dẫn đến các cách hiểu khác nhau, nên chưa đủ căn cứ vững chắc để kết luận vi phạm.v.v. Chính vì vậy, quy định ban hành kết luận  là cần thiết và phù hợp thực tiễn, để Viện kiểm sát nhân dân các cấp vận dụng linh hoạt trong những trường hợp tương tự như trên, đồng thời vẫn đảm bảo không trái luật.
- Bổ sung thêm Khoản 7 mới về kiểm tra việc thực hiện kiến nghị. Vấn đề này Quy chế cũ chưa quy định nhưng thực tế Viện kiểm sát nhân dân các cấp vẫn tổ chức thực hiện thường xuyên.
 
Điều 24. Các bước cụ thể trong thực hiện kiểm sát
1. Nghiên cứu đơn khiếu nại, tố cáo hoặc xác minh thông tin liên quan đến việc vi phạm của cơ quan tư pháp trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo để xác định chính xác việc tuân theo pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan tư pháp.
2. Thực hiện lần lượt các yêu cầu theo đúng các điều kiện liên quan được quy định tại Điều 23 Quy chế này. Việc thực hiện yêu cầu phải bằng văn bản.
3. Trong trường hợp cơ quan tư pháp không đáp ứng hoặc đáp ứng không đầy đủ yêu cầu của Viện kiểm sát nhân dân, thì có văn bản kiến nghị lên cơ quan quản lý cấp trên để có biện pháp quản lý, đôn đốc việc thực hiện của cơ quan tư pháp.
4. Nếu xét thấy cần thiết có thể trực tiếp gặp gỡ, đối thoại với người khiếu nại, người bị khiếu nại, người tố cáo, người bị tố cáo và những người có liên quan để xác minh những vấn đề cần làm rõ nhằm kết luận việc tuân theo pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan tư pháp.
5. Sau khi kết thúc việc nghiên cứu hồ sơ, tài liệu và xác minh những vấn đề liên quan đến giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan tư pháp hoặc khi kết thúc cuộc kiểm sát trực tiếp trong tố tụng hình sự, thì tuỳ tính chất mức độ vi phạm pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan tư pháp, ban hành kháng nghị, kiến nghị để yêu cầu cơ quan được kiểm sát khắc phục vi phạm pháp luật. Đồng thời, nếu xét thấy cần thiết, Viện kiểm sát nhân dân có văn bản kiến nghị cơ quan cấp trên trực tiếp của cơ quan được kiểm sát để yêu cầu thực hiện các biện pháp quản lý liên quan.
Điều 19. Các bước cụ thể trong thực hiện kiểm sát
1. Nghiên cứu đơn khiếu nại, tố cáo hoặc xác minh văn bản yêu cầu của cơ quan có thẩm quyềnhoặc các nguồn thông tin khác và hồ sơ, tài liệu  liên quan đến việc vi phạm của cơ quan tư pháp trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp để xác định chính xác việc tuân theo pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan tư pháp; nếu cần thiết, có thể làm việc trực tiếp với người khiếu nại, người bị khiếu nại, người tố cáo, người bị tố cáo hoặc những người có liên quan để xác minh những vấn đề cần làm rõ hoặc thu thập những thông tin, tài liệu, chứng cứ cần thiết khác.
2. Thực hiện lần lượt các yêu cầu theo đúng các điều kiện liên quan được quy định tại Điều 23 Quy chế này. Việc thực hiện yêu cầu phải bằng văn bản. Đối chiếu việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp với các quy định tương ứng của pháp luật để xác định dấu hiệu vi phạm hoặc kết luận vi phạm trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp (về thẩm quyền, thủ tục, thời hạn và nội dung giải quyết).
3. Trong trường hợp cơ quan tư pháp không đáp ứng hoặc đáp ứng không đầy đủ yêu cầu của Viện kiểm sát nhân dân, thì có văn bản kiến nghị lên cơ quan quản lý cấp trên để có biện pháp quản lý, đôn đốc việc thực hiện của cơ quan tư pháp. Lựa chọn các biện pháp kiểm sát phù hợp và ban hành kết luận, kiến nghị, kháng nghị theo quy định tại Điều 23 Quy chế này. Trong quá trình áp dụng các biện pháp kiểm sát, nếu thấy cần thiết thì tiếp tục thực hiện các hoạt động quy định tại Khoản 1, Khoản 2, Điều này.
4. Nếu xét thấy cần thiết có thể trực tiếp gặp gỡ, đối thoại với người khiếu nại, người bị khiếu nại, người tố cáo, người bị tố cáo và những người có liên quan để xác minh những vấn đề cần làm rõ nhằm kết luận việc tuân theo pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan tư pháp. Khi ban hành các văn bản trong hoạt động kiểm sát, phải căn cứ theo quy định của pháp luật tương ứng với từng lĩnh vực để ấn định cụ thể thời hạn mà các cơ quan được kiểm sát phải trả lời hoặc thực hiện; trong trường hợp pháp luật tương ứng trong từng lĩnh vực không có quy định cụ thể về thời hạn, thì thực hiện như sau:
- Khi ban hành văn bản áp dụng biện pháp kiểm sát quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 23, Quy chế này, thì ấn định thời hạn là 7 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản; trường hợp có lý do khách quan cần kéo dài thời hạn và cơ quan được kiểm sát phải thông báo rõ lý do bằng văn bản, thì thời hạn là 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản;
- Khi ban hành văn bản áp dụng biện pháp kiểm sát quy định tại Điểm b và Điểm c, Khoản 1, Điều 23, Quy chế này, thì ấn định thời hạn là 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản; trường hợp có lý do khách quan cần kéo dài thời hạn và cơ quan được kiểm sát phải thông báo rõ lý do bằng văn bản, thì thời hạn là 30 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản;
- Khi ban hành văn bản kết luận, kiến nghị, kháng nghị quy định tại Điểm a, Điểm b, Điểm c, Khoản 4 và Khoản 5, Điều 23 Quy chế này, thì ấn định thời hạn là 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản; trường hợp có lý do khách quan cần kéo dài thời hạn và cơ quan được kiểm sát phải thông báo rõ lý do bằng văn bản, thì thời hạn là 30 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản.
5. Sau khi kết thúc việc nghiên cứu hồ sơ, tài liệu và xác minh những vấn đề liên quan đến giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan tư pháp hoặc khi kết thúc cuộc kiểm sát trực tiếp trong tố tụng hình sự, thì tuỳ tính chất mức độ vi phạm pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan tư pháp, ban hành kháng nghị, kiến nghị để yêu cầu cơ quan được kiểm sát khắc phục vi phạm pháp luật. Đồng thời, nếu xét thấy cần thiết, Viện kiểm sát nhân dân có văn bản kiến nghị cơ quan cấp trên trực tiếp của cơ quan được kiểm sát để yêu cầu thực hiện các biện pháp quản lý liên quan. Việc ban hành các văn bản trong hoạt động kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp và hoạt động kiểm tra việc thực hiện kiến nghị, kháng nghị phải sử dụng hệ thống biểu mẫu về công tác Kiểm sát xét khiếu tố do Viện kiểm sát nhân dân nhân dân tối cao quy định.
6. Sau khi kết thúc việc nghiên cứu hồ sơ, tài liệu và xác minh những vấn đề liên quan đến giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan tư pháp hoặc khi kết thúc cuộc kiểm sát trực tiếp trong tố tụng hình sự, thì tuỳ tính chất mức độ vi phạm pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan tư pháp, ban hành kháng nghị, kiến nghị để yêu cầu cơ quan được kiểm sát khắc phục vi phạm pháp luật. Đồng thời, nếu xét thấy cần thiết, Viện kiểm sát nhân dân có văn bản kiến nghị cơ quan cấp trên trực tiếp của cơ quan được kiểm sát để yêu cầu thực hiện các biện pháp quản lý liên quan. Khi tiến hành kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự, Viện kiểm sát nhân dân các cấp áp dụng linh hoạt các quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Bộ luật tố tụng hình sự, Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT-VKSTC-TATC-BCA-BQP-BTP ngày 10/8/2005 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về khiếu nại, tố cáo và các quy định của Quy chế này.
7. Khi tiến hành kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân các cấp áp dụng các quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật thi hành án hình sự và các quy định của Quy chế này.
8. Khi tiến hành kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự và tố tụng hành chính, Viện kiểm sát nhân dân các cấp áp dụng linh hoạt các quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính, Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-TANDTC-VKSNDTC và Thông tư liên tịch số 03/2012/TTLT-TANDTC-VKSNDTC cùng ngày 1/8/2012 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, tố tụng hành chính và các quy định của Quy chế này.
9. Khi tiến hành kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự, Viện kiểm sát nhân dân các cấp áp dụng các quy định Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật thi hành án dân sự và Quy chế này.
10. Việc tiến hành kiểm sát và kiểm tra việc thực hiện kiến nghị, kháng nghị đều phải được lập thành hồ sơ. Hồ sơ phải có đầy đủ các văn bản kiểm sát hoặc kiểm tra đã ban hành theo quy định và các tài liệu liên quan khác. Hồ sơ phải được đánh số trang theo thứ tự tài liệu và được lưu trữ theo quy định của pháp luật.
- Điều 24 được chuyển thành Điều 19, tên Điều này được giữ nguyên.
- Các khoản của Điều 24 Quy chế cũ được sắp xếp lại, sửa đổi, bổ sung hoặc loại bỏ để phù hợp, cụ thể:
+ Khoản 1 cũ được tiếp thu nhưng có sửa đổi, bổ sung để làm rõ hơn những thao tác cụ thể khi Viện kiểm sát nhân dân tiếp cận đơn hoặc thông tin khác có liên quan đến việc vi phạm của cơ quan tư pháp.
+ Khoản 2 cũ được loại bỏ, vì việc quy định phải thực hiện lần lượt các biện pháp kiểm sát không phù hợp với thực tiễn đã được các Viện kiểm sát nhân dân địa phương phản ánh nhiều; hơn nữa, trong các văn bản Luật thực định trong các lĩnh vực cũng không quy định phải thực hiện lần lượt các biện pháp kiểm sát. Do đó, Khoản 2 cũ được thay bằng Khoản 2 mới với nội dung quy định theo hướng: sau khi đã nắm được việc giải quyết của các cơ quan tư pháp thì cần nghiên cứu các quy định của pháp luật, đối chiếu làm rõ vi phạm của các cơ quan tư pháp.
+ Khoản 3 cũ được loại bỏ vì đã được quy định tại Điểm c, Khoản 4, Điều 23; và được thay thế bằng Khoản 3 mới có nội dung quy định theo hướng: sau khi xác định rõ dấu hiệu vi phạm hoặc kết luận có vi phạm thì tiếp tục thực hiện thao tác áp dụng các biện pháp kiểm sát phù hợp và ban hành các văn bản kiểm sát. Ngoài ra, cũng quy định trường hợp đang trong quá trình áp dụng các biện pháp kiểm sát, nếu thấy cần thiết phải làm rõ thêm vi phạm của cơ quan tư pháp mà giai đoạn trước khi áp dụng các biện pháp kiểm sát chưa làm đầy đủ hoặc có phát sinh thêm những tình tiết mới, thì tiếp tục áp dụng lại các thao tác theo Khoản 1, Khoản 2, Điều này.
+ Khoản 4 cũ được loại bỏ, vì đã tiếp thu và đưa lên Khoản 1 mới; và được thay thế bằng Khoản 4 mới với nội dung quy định về ấn định thời hạn các cơ quan tư pháp phải thực hiện khi Viện kiểm sát nhân dân ban hành các văn bản trong hoạt động kiểm sát; cần quy định bổ sung như vậy, vì hiện nay, trong thi hành án hình sự và thi hành án dân sự chưa có Thông tư hướng dẫn, nên chưa có quy định về thời hạn khi Viện kiểm sát nhân dân ban hành các văn bản trong hoạt động kiểm sát.
+ Khoản 5 cũ được loại bỏ, vì một số nội dung không cần thiết hoặc đã được tiếp thu đưa lên các phần trên; và được thay thế bằng Khoản 5 mới có nội dung quy định theo hướng: thực hiện các bước ban hành văn bản trong hoạt động kiểm sát phải tuân thủ theo hệ thống biểu mẫu của công tác Kiểm sát xét khiếu tố, vì hiện nay, hệ thống các biểu mẫu về công tác Kiểm sát xét khiếu tố đã quy định rất cụ thể về thể thức, trình tự, thủ tục và các điều kiện khi ban hành văn bản trong hoạt động kiểm sát, đây cũng là những thao tác quan trọng và bắt buộc phải thực hiện khi tiến hành kiểm sát.
+ Bổ sung Khoản 6 mới có nội dung quy định theo hướng: kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự cần phải vận dụng các quy định của Thông tư liên tịch số 02 và Quy chế này. Sở dĩ phải quy định như vậy, vì hiện nay, Thông tư liên tịch số 02 quy định về kiểm sát trong tố tụng hình sự vẫn còn hiệu lực thi hành, mặc dù các quy định này đã lạc hậu và có xu hướng làm phức tạp hóa hoạt động kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự, với các quy định rườm rà, trùng lặp, khó thực hiện, nhìn chung không còn phù hợp với thực tiễn (Vụ 7 đã có đề xuất lãnh đạo VKSNDTC về kế hoạch chủ trì phối hợp với các cơ quan tư pháp TW sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 02 sau khi Bộ luật TTHS sửa đổi được thông qua). Vì vậy, cần quy định như trên để tùy từng trường hợp, các Viện kiểm sát nhân dân vận dụng linh hoạt những quy định tích cực, còn phù hợp của Thông tư liên tịch số 02, kết hợp với những quy định mới của Quy chế này, nhằm đảm bảo hiệu quả của hoạt động kiểm sát.
+ Bổ sung Khoản 7 mới, vì hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn hoạt động kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án hình sự, nên cần quy định thao tác vận dụng các quy định của Quy chế này để thực hiện hoạt động kiểm sát đảm bảo tính thuận lợi.
+ Bổ sung thêm Khoản 8 mới, vì hiện nay trong tố tụng dân sự và tố tụng hành chính có các Thông tư liên tịch số 04 và 03 điều chỉnh hoạt động kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, về cơ bản, các quy định của hai Thông tư này đã được tiếp thu trong Quy chế này.
+ Bổ sung thêm Khoản 9 mới để các Viện kiểm sát nhân dân thực hiện thao tác vận dụng linh hoạt các quy định của Luật thi hành án dân sự (sắp tới có thể được sửa đổi, bổ sung) và Quy chế này.
+ Bổ sung thêm Khoản 10 mới về việc lập hồ sơ khi tiến hành kiểm sát và kiểm tra việc thực hiện kiến nghị. Đây cũng là thao tác bắt buộc.
ChươngV
Quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
Quản lý nhà nước về công tác tiếp công dân, tiếp nhận và xử lý đơn, giải quyết và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp
Sửa lại tên gọi của Chương này cho phù hợp với từng nội dung được quy định trong Quy chế
 
 
 
 
 
 
 
 
Điều 25.Nội dung công tác quản lý Nhà nước
Nội dung quản lý Nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo bao gồm:
1. Ban hành các quyết định, chỉ thị, thông tư, quy chế và quy địnhvề tiếp công dân, tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo.
2. Hướng dẫn, kiểm tra về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp.
3. Tập huấn nghiệp vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp.
4. Tổng hợp tình hình khiếu nại, tố cáo, và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Viện kiểm sát; tổng kết kinh nghiệm về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp.
 
Điều 20. Nội dung công tác quản lý Nhà nước
Nội dung quản lý Nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo bao gồm:
1. Ban hành các quyết định, chỉ thị, thông tư, quy chế và quy định văn bảnhướng dẫn, qui định về tiếp công dân, tiếp nhận, xử lý đơn; giải quyết và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp.
2. Tổ chức thực hiện, hướngdẫn, kiểm tra việc thực hiện chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật của nhà nước về công tác tiếp công dân, tiếp nhận và xử lý đơn, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp.
3. Bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ về công tác tiếp công dân; phân loại, xử lý đơn; giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp.
4. Tổng hợp tình hình khiếu nại, tố cáo và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Viện kiểm sát;kinh nghiệmnghiên cứu, tổng kết thực tiễn về công tác tiếp công dân, tiếp nhận, xử lý đơn, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp.
- Điều 25 được chuyển thành Điều 20 mới
- Theo Luật tiếp công dân, VKS các cấp có trách nhiệm quản lý nhà nước về công tác tiếp công dân trong Ngành, cần bổ sung vào Điều này để đơn vị khiếu tố VKS các cấp thực hiện thống nhất.
- SĐ,BS Khoản 1: Hiện nay, thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của VKSTC còn một số quan điểm khác nhau, không nên nêu rõ từng loại văn bản như cũ, nên nêu chung sẽ bao hàm đầy đủ hơn.
- Sửa đổi, bổ sung khoản 2: Công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo ngày càng được Đảng, Nhà nước quan tâm chỉ đạo, thường xuyên ban hành các văn bản mới, cần phải bổ sung nội dung “tổ chức thực hiện” các văn bản này.
 Sửa đổi, bổ sung khoản 4: Việc ban hành các văn bản hướng dẫn pháp luật phải gắn với nghiên cứu khoa học và tổng kết thực tiễn chứ không chỉ tổng kết kinh nghiệm;
- Theo qui định của Luật tiếp công dân, VKS các cấp có trách nhiệm quản lý, tổng kết công tác tiếp công dân.
 
Điều 26. Nhiệm vụ quản lý theo thẩm quyền phân cấp
1. Trong phạm vi nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát các cấp có trách nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh những nội dung quản lý liên quan quy định tại Điều 25 Quy chế này.
2. Đơn vị khiếu tố thuộc VKS các cấp có nhiệm vụ tham mưu, giúp Viện trưởng cấp mình thực hiện đầy đủ nội dung quản lý Nhà nước về công tác giải quyết  khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo theo đúng thẩm quyền phân cấp.
 3. Các đơn vị khác thuộc Viện kiểm sát các cấp có nhiệm vụ định kỳ hàng tuần, tháng thông báo kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp cho đơn vị Khiếu tố để báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát.
Điều 21. Nhiệm vụ quản lý theo thẩm quyền phân cấp nhà nước
1. Trong phạm vi nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát nhân dân các cấp có trách nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh những nội dung quản lý liên quan quy định tại Điều 20 Quy chế này.
2. Đơn vị Khiếu tố thuộc Viện kiểm sát nhân dân các cấp có nhiệm vụ tham mưu, giúp Viện trưởng cấp mình thực hiện đầy đủ nội dung quản lý nhà nước về công tác tiếp công dân, tiếp nhận, xử lý đơn, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp theo đúng thẩm quyền phân cấp.
3. Các đơn vị khác thuộc Viện kiểm sát nhân dân các cấp có nhiệm vụ định kỳ hàng tuần, tháng thông báo kết quả giải quyết đơn thuộc trách nhiệm đơn vị mình và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp cho đơn vị Khiếu tố để báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.
 
- Tên gọi: Việc quản lý nhà nước trong công tác khiếu tố cần có sự phân công giữa đơn vị khiếu tố với các đơn vị nghiệp trong mỗi VKS. Tại khoản 1 đã thể hiện tính chất công việc thuộc mỗi cấp Kiểm sát, không cần lấy tên phân cấp thẩm quyền.
- Khoản 1 qui định chung về nhiệm vụ quản lý nhà nước cần giữ nguyên
- Khoản 2: Theo qui định tại Luật tiếp công dân, VKSND các cấp có trách nhiệm quản lý nhà nước về công tác tiếp công dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cần bổ sung nội dung này vào nhiệm vụ của đơn vị khiếu tố.
+ Bỏ cụm từ “theo đúng thẩm quyền phân cấp” vì đây là phân công nhiệm vụ của các đơn vị trong mỗi cấp thực hiện các nội dung tại khoản 1 .
- Khoản 3: Khi đơn vị khiếu tố có nhiệm vụ giải quyết và kiểm sát giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp thì các đơn vị khác chỉ có nhiệm vụ giải quyết kiến nghị, phản ánh, đề nghị và khiếu nại, tố cáo về hành chính. Do vậy, cần qui định rõ các đơn vị khác thông báo kết quả giải quyết những loại đơn thuộc trách nhiệm của đơn vị đó.
 
 
 
 
 
 
 
 
Điều 27. Chế độ báo cáo
1. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có trách nhiệm báo cáo các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và công tác kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền ngành Kiểm sát.
2. Viện trưởng Viện kiểm sát địa phương có trách nhiệm báo cáo công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền với Thường trực cấp uỷ, Hội đồng nhân dân cùng cấp, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp;
3. Viện trưởng Viện kiểm sát có trách nhiệm báo cáo kết quả giải quyết hoặc tiến độ giải quyết đơn do các cơ quan Đảng, Nhà nước, các Uỷ ban của Quốc hội,  Hội đồng nhân dân, đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, Đoàn đại biểu Quốc hội, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cơ quan báo chí chuyển đến cho cơ quan, người chuyển đơn biết  theo quy định của pháp luật.
4. Thủ trưởng các đơn vị thuộc Viện kiểm sát các cấp, khi xây dựng các báo cáo tháng gửi Viện trưởng Viện kiểm sát cấp mình phải có nội dung về tình hình, kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo và kết quả kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp của đơn vị mình, đồng gửi bản sao bản báo cáo này cho đơn vị Khiếu tố để theo dõi, tổng hợp chung báo cáo Viện trưởng;
5. Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp trong nội dung giao ban công tác phải đề ra yêu cầu báo cáo riêng về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của cấp mình.
Điều 22. Chế độ báo cáo
1. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có trách nhiệm báo cáo các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước; thông báo với Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về công tác tiếp công dân, giải quyết và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền ngành Kiểm sát.
2. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương có trách nhiệm báo cáo với Hội đồng nhân dân cùng cấp, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp và thông báo đến Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp về công tác tiếp công dân, giải quyết và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền
3. Khi nhận được đơn do các cơ quan Đảng, Nhà nước, đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cơ quan báo chí chuyển đến, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm báo cáo việc giải quyết cho cơ quan, người chuyển đơn biết  theo quy định của pháp luật.
 4. Thủ trưởng các đơn vị thuộc Viện kiểm sát nhân dân các cấp khi xây dựng các báo cáo định kỳ phải có nội dung về tiếp nhận, giải quyết đơn thuộc trách nhiệm của mình.
5. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp trong nội dung giao ban công tác phải đề ra yêu cầu báo cáo về công tác kiểm sát xét khiếu tố.
 
 
- Điều 27 chuyển thành Điều 22 mới
- Khoản 1: Theo qui định tại K2, Đ 43 Luật tố cáo thì ngoài việc báo cáo với các cơ quan cáo nhất của Đảng, Nhà nước, VKSTC còn phải thông báo đến UBTWMTTQVN về công tác giải quyết tố cáo; Đ5 Luật tiếp công dân, VKSNDTC có trách nhiêm thông báo với Chính phủ về kết quả công tác này.
- Khoản 2: VKS các cấp phải báo cáo công tác tiếp dân để VKSTC báo cáo theo Điều 5 Luật tiếp công dân; Theo K4 Đ 43 Luật tố cáo, VKS các cấp tỉnh, huyện phải định kỳ báo cáo HĐND cùng cấp, cơ quan cấp trên và thông báo đến MTTQ cùng cấp về công tác gq tố cáo.
-Khoản 3:
Không thay đổi vì các cơ quan, cá nhân kể trên có quyền giám sát, chỉ sắp xếp lại câu cho rõ nghĩa.
- Khoản 4:  Bổ sung các nội dung trên vì theo Luật tiếp công dân, khi tiếp nhận kiến nghị, phản ánh thuộc thẩm quyền, cơ quan nhà ước có trách nhiệm gq, trả lời công dân; ngoài ra, đối với VKS cấp tỉnh và tối cao, có thẩm quyền giải quyết đơn đề nghị kháng nghị GĐT,TT
- Khoản 5: Nội dung này cần được duy trì để các đơn vị có nhiệm vụ chịu trách nhiệm trước Viện trưởng về công tác giải quyết đơn, đảm bảo thời hạn, đúng pháp luật. Đồng thời, bổ sung nội dung “tiếp công dân” để phù hợp với Luật tiếp công dân qui định về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan trong công tác tiếp công dân.
Chương 6
Điều 28. Trách nhiệm tổ chức thực hiện
1. Thủ trưởng các đơn vị thuộc Viện kiểm sát nhân dân nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ chức thực hiện, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện Quy chế này.
Vụ Khiếu tố có trách nhiệm tham mưu, giúp Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân nhân dân tối cao hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện Quy chế này trong toàn ngành.
2. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Quân sự Trung ương căn cứ Quy chế này hướng dẫn thực hiện công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hệ thống Viện kiểm sát nhân dân Quân sự.
Điều 28. Trách nhiệm tổ chức thực hiện
1. Thủ trưởng các đơn vị thuộc Viện kiểm sát nhân dân nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ chức thực hiện, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện Quy chế này.
Vụ Kiểm sát xét khiếu tố có trách nhiệm tham mưu, giúp Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân nhân dân tối cao hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện Quy chế này trong toàn ngành.
2. Viện trưởng Viện kiểm sát Quân sự Trung ương căn cứ Quy chế này hướng dẫn thực hiện công tác tiếp công dân, tiếp nhận, xử lý đơn, giải quyết và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hệ thống Viện kiểm sát Quân sự.
Điều này về cơ bản giữ nguyên vì vẫn phù hợp, chỉ thay cụm từ “khiếu nại, tố cáo” bằng từ “đơn” ở Khoản 2 cho phù hợp phần giải thích từ ngữ đã nêu ở trên.
 
Điều 29. Việc đảm bảo cơ sở vật chất, phương tiện trong tổ chức thực hiện
1. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp có trách nhiệm bảo đảm những điều kiện cần thiết để thực hiện hiệu quả Quy chế này, bao gồm:
a) Bố trí phòng tiếp công dân và nơi trực nghiệp vụ thuận tiện để tiếp nhận khiếu nại, tố cáo;
b) In ấn đầy đủ sổ sách, biểu mẫu phục vụ công tác tiếp nhận, xử lý và giải quyết khiếu nại, tố cáo, tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố;
c) Trang bị đầy đủ phương tiện cần thiết phục vụ cho việc tiếp công dân, tiếp nhận, xử lý và giải quyết khiếu nại, tố cáo, tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố ở đơn vị, địa phương mình như: máy ghi âm, ghi hình, máy thu hình, máy vi tính, bàn, ghế, tủ và các phương tiện cần thiết khác.
2. Vụ Kế hoạch- tài chính thuộc Viện kiểm sát nhân dân nhân dân tối cao có trách nhiệm nghiên cứu, đề xuất việc bố trí kinh phí nghiệp vụ trên cơ sở xây dựng quy định chi tiết về chế độ, điều kiện vất chất phương tiện phục vụ cho việc thực hiện nhiệm vụ trong công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, đảm bảo cho công tác này hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Điều 29. Việc đảm bảo cơ sở vật chất, phương tiện trong tổ chức thực hiện
1. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp có trách nhiệm bảo đảm những điều kiện cần thiết để thực hiện hiệu quả Quy chế này, bao gồm:
a. Bố trí phòng địa điểm tiếp công dân theo quy định của Viện kiểm sát nhân dân nhân dân tối cao. và nơi trực nghiệp vụ thuận tiện để tiếp nhận khiếu nại, tố cáo đơn;
b. In ấn và cấp đầy đủ sổ sách, biểu mẫu phục vụ công tác tiếp nhận, xử lý và giải quyết khiếu nại, tố cáo, tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố Kiểm sát xét khiếu tố;
c. Trang bị đầy đủ phương tiện cần thiết phục vụ cho việc tiếp công dân, tiếp nhận, xử lý và giải quyết khiếu nại, tố cáo, tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố công tác Kiểm sát xét khiếu tố ở đơn vị, địa phương mình như: máy ghi âm, ghi hình, máy thu hình, máy vi tính, bàn, ghế, tủ và các phương tiện cần thiết khác.
2. Vụ Kế hoạch- tài chính thuộc Viện kiểm sát nhân dân nhân dân tối cao có trách nhiệm nghiên cứu, đề xuất việc bố trí kinh phí nghiệp vụ trên cơ sở xây dựng quy định chi tiết về chế độ, điều kiện vật chất, phương tiện phục vụ cho việc thực hiện nhiệm vụ trong công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo Kiểm sát xét khiếu tố, đảm bảo cho công tác này hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Điều này về cơ bản giữ nguyên vì vẫn phù hợp, chỉ thay thay đổi một số từ ngữ cho phù hợp
 
Điều 30.  Hiệu lực quy chế và việc sửa đổi bổ sung quy chế.
Quy chế này thay thế Quy chế tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền; kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp và tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm được ban hành theo Quyết định số 57/2003/QĐ-VKSTC-KT ngày 9/5/2003 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân nhân dân tối cao.
Việc sửa đổi, bổ sung Quy chế này do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân nhân dân tối cao quyết định./.
Điều 30.  Hiệu lực quy chế và việc sửa đổi bổ sung Quy chế.
Quy chế này thay thế Quy chế về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát (được ban hành theo Quyết định số 59/2006-QĐ-VKSTC-V7 ngày 6/2/2006 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân nhân dân tối cao) và Quyết định số 487/QĐ/VKSTC-V7 ngày 4/9/2008 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc giao nhiệm vụ kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về các hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp.
Việc sửa đổi, bổ sung Quy chế này do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân nhân dân tối cao quyết định./.
Điều này về cơ bản giữ nguyên, chỉ thay đổi tên các văn bản cho phù hợp
 


 
 

 

 
 
TÌM KIẾM