CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

The Supreme People’s Procuracy of Viet Nam

Hướng dẫn tập huấn về công tác
tham mưu tổng hợp trong ngành Kiểm sát nhân dân
         Vừa qua, Viện kiểm sát nhân dân tối cao tổ chức tập huấn về công tác văn phòng trong Ngành. Để Viện kiểm sát nhân dân các cấp thuận lợi trong việc tham khảo tài liệuHướng dẫn tập huấn về công tác tham mưu tổng hợp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trích đăng các tài liệu trênTrang tin điện tử của Ngành.
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỐI CAO
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
 
          Hà Nội, ngày 28 tháng 8  năm 2012
HƯỚNG DẪN TẬP HUẤN
QUÁN TRIỆT, TRIỂN KHAI THỰC HIỆN QUY CHẾ VỀ CHẾ ĐỘ THÔNG TIN, BÁO CÁO VÀ QUẢN LÝ TRONG NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Sự cần thiết phải tập huấn Quy chế về chế độ thông tin, báo cáo trong ngành Kiểm sát nhân dân
- Trong thời gian qua, việc chấp hành chế độ thông tin, báo cáo và quản lý trong ngành Kiểm sát nhân dân đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém và vi phạm, như: việc chấp hành các quy định về tiếp nhận, thu thập thông tin; việc chấp hành thời hạn, thời điểm báo cáo; về nội dung thông tin, báo cáo; việc báo cáo, gửi báo cáo, tài liệu, văn bản khác; việc xác định những nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Kế hoạch, Chương trình công tác, tổ chức triển khai, thực hiện, kiểm tra đánh giá,... Công tác tổ chức, bố trí sắp xếp cán bộ, tổ chức điều hành công tác tham mưu, tổng hợp cũng còn nhiều hạn chế, bất cập,... cần thiết có sự thảo luận, trao đổi, thống nhất quán triệt, chỉ đạo trong toàn Ngành.
- Để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của Viện kiểm sát các cấp, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nhân dân trong thời gian tới, đòi hỏi việc cung cấp, tiếp nhận thông tin, báo cáo phải đầy đủ, kịp thời và chính xác hơn, tạo điều kiện, phục vụ tốt nhất công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo Viện kiểm sát các cấp. Quy chế về thông tin báo cáo và quản lý công tác là công cụ quan trọng đảm bảo thực hiện hiệu quả nhất, đáp ứng yêu cầu trên. Vì vậy, cần thiết phải thường xuyên quán triệt, chỉ đạo, hướng dẫn việc thực hiện Quy chế về chế độ thông tin, báo cáo và quản lý công tác trong ngành Kiểm sát nhân dân.
- Quy chế về thông tin, báo cáo và quản lý công tác trong ngành Kiểm sát nhân dân ban hành theo Quyết định 379/QĐ-VKSTC ngày 13/7/2012 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã được sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung so với Quy chế về thông tin, báo cáo và quản lý công tác trong ngành Kiểm sát nhân dân ban hành kèm theo quyết định số 198/QĐ-VKSTC ngày 29/4/2008. Thực tiễn cho thấy, đã nhiều năm, ngành Kiểm sát chưa tổ chức tập huấn về công tác thông tin, báo cáo và quản lý công tác trong Ngành; nhiều cán bộ mới làm công tác tham mưu, tổng hợp chưa có nhận thức đầy đủ, hệ thống về các chế độ này, cũng như công tác tham mưu, tổng hợp,... Vì vậy, tổ chức tập huấn về nội dung này là cần thiết.
2. Những yêu cầu của sửa đổi, bổ sung trong Quy chế về chế độ thông tin, báo cáo và quản lý công tác trong trong ngành Kiểm sát nhân dân
 Sau khi tổ chức sơ kết 3 năm thực hiện Quy chế về thông tin, báo cáo và quản lý công tác trong ngành Kiểm sát nhân dân (ban hành kèm theo quyết định số 198/QĐ-VKSTC ngày 29/4/2008), để khắc phục những tồn tại trong Quy chế, Viện KSND tối cao đã chỉ đạo sửa đổi, bổ sung Quy chế theo những yêu cầu sau:
- Xác định rõ phạm vi, trách nhiệm của Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp, Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc và đơn vị, bộ phận làm công tác tham mưu, tổng hợp của Viện kiểm sát các cấp trong việc thực hiện Quy chế.
- Xác định rõ các loại văn bản về thông tin, báo cáo và quản lý công tác của Ngành. Quy định cụ thể chế độ về thông tin, báo cáo và quản lý công tác (thời gian, thời điểm xây dựng, nội dung và việc gửi báo cáo,...), khắc phục những điểm bất hợp lý, chưa phù hợp của một số quy định trong Quy chế 198; bổ sung nhưng quy định đảm bảo việc thông tin, báo cáo nhanh chóng, chính xác, kịp thời.
- Đảm bảo mục đích nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành nhằm tạo sự chuyển biến tích cực trong công tác thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp và công tác xây dựng Ngành.
II. NHỮNG NỘI DUNG VỀ THÔNG TIN BÁO CÁO VÀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC TRONG NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẦN ĐƯỢC NHẬN THỨC, QUÁN TRIỆT, TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Những sửa đổi, bổ sung của Quy chế
Sau thời gian soạn thảo, tổng hợp các ý kiến của các đơn vị trong toàn Ngành, ngày 13/7/2012 lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ký Quyết định số 379/QĐ-VKSTC-VP ban hành Quy chế về chế độ thông tin báo cáo và quản lý công tác trong ngành Kiểm sát nhân dân.
Quá trình sửa đổi, bổ sung Quy chế, có những đề nghị sửa đổi cụ thể một số quy định, tuy nhiên qua nghiên cứu, tổng hợp ý kiến các đơn vị trong toàn Ngành và để đảm bảo phù hợp với các quy định khác của Ngành có liên quan, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định giữ nguyên quy định cũ hoặc sửa đổi, bổ sung theo phương án hợp lý nhất.
Quy chế về chế độ thông tin, báo cáo và quản lý công tác của chúng ta hiện nay có 24 Điều. Trong đó, đã tách, bổ sung 03 Điều; sửa đổi 17 Điều, tập trung tại Chương 2 về chế độ thông tin, báo cáo và quản lý công tác. Cụ thể như sau:
Chương 1. Những quy định chung
- Quy định bổ sung về đối tượng, nguyên tắc thực hiện (Điều 2, Điều 1);
- Bổ sung quy định trách nhiệm của Văn phòng trong việc tiếp nhận, tổng hợp báo cáo lãnh đạo Viện cùng cấp về thông tin liên quan hoạt động của Ngành (Điều 3); quy định rõ trách nhiệm tổ chức thực hiện, chỉ đạo, kiểm tra thực hiện Quy chế của Viện trưởng, Thủ trưởng; thẩm quyền ký các văn bản của đơn vị (Điều 2).
Chương 2. Chế độ thông tin, báo cáo
- Quy định riêng các loại báo cáo gửi cơ quan Đảng, Nhà nước và các báo cáo trong ngành Kiểm sát (Điều 6, Điều 7); quy định Thông báo riêng (Điều 16).
- Quy định cụ thể, hợp lý hơn về thời điểm lấy số liệu, gửi một số loại báo cáo đảm bảo yêu cầu chặt chẽ về thời gian (Điều 8) (báo cáo tuần, tháng, sơ kết 6 tháng đầu năm và báo cáo tổng kết công tác năm, báo cáo tổng kết công tác thi đua, khen thưởng, như: Thời điểm lấy số liệu thống kê để xây dựng Báo cáo sơ kết công tác 6 tháng đầu năm tính từ ngày 01 tháng 12 của năm trước đến hết ngày 31 tháng 5 của năm báo cáo. Thời điểm lấy số liệu thống kê để xây dựng Báo cáo tổng kết công tác năm tính từ ngày 01 tháng 12 của năm trước đến hết ngày 30 tháng 11 của năm báo cáo).
Quy định thời điểm lấy số liệu, xây dựng và gửi báo cáo tổng kết công tác thi đua khen thưởng phù hợp với báo cáo tổng kết công tác, khắc phục quy định bất hợp lý về thời điểm, thời hạn Báo cáo tổng kết công tác thi đua (Điểm 7, Điều 8).
Sửa đổi, bổ sung quy định về thời điểm, thời hạn Báo cáo thống kê; thời điểm thống kê số liệu 6 tháng đầu năm trùng với thời điểm lấy số liệu phục vụ việc sơ kết công tác 6 tháng đầu năm; quy định chặt chẽ hơn, rút ngắn thời gian xây dựng báo cáo thống kê, đảm bảo việc sơ kết, tổng kết, triển khai công tác kịp thời hơn (Điều 9).
- Bổ sung quy định về báo cáo công tác quý của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, nhằm định kỳ đánh giá tiến độ thực hiện kế hoạch công tác; chất lượng, hiệu quả công tác trong mỗi quý.
- Bổ sung quy định về báo cáo về việc tiếp nhận xử lý thông tin liên quan đến hoạt động của Ngành. Nhằm đảm bảo việc nắm bắt thông tin, chỉ đạo, xử lý và quản lý trong toàn Ngành, phục vụ hiệu quả công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành chung của Viện kiểm sát các cấp và của toàn Ngành(Điểm 6 Điều 8).
Bổ sung quy định về việc sử dụng báo cáo thống kê để xây dựng báo cáo tổng hợp, xây dựng chuyên đề; quy định rõ trường hợp báo cáo thống kê không có các chỉ tiêu cần thì việc yêu cầu Viện kiểm sát địa phương báo cáo bổ sung phải do Viện trưởng quyết định, hạn chế việc nhiều đơn vị cùng yêu cầu các đơn vị, các Viện kiểm sát địa phương cung cấp số liệu ngoài báo cáo thống kê (Điều 9).
- Quy định bổ sung một số loại việc Viện kiểm sát cấp dưới phải báo cáo đột xuất, để phục vụ kịp thời công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của Viện kiểm sát cấp trên: Viện kiểm sát cấp dưới phải báo cáo ngay với Viện kiểm sát cấp trên các trường hợp Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trả tự do do không phạm tội; quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án do bị can không phạm tội; Viện kiểm sát truy tố, Toà án tuyên không phạm tội; các vụ án dân sự bị hình sự hoá và ngược lại và những vụ trốn khỏi nhà tạm giữ, trại tạm giam, trại giam (Điều 11).
- Quy định chặt chẽ trách nhiệm trả lời báo cáo thỉnh thị của Viện kiểm sát cấp trên: Thời hạn trả lời thỉnh thị không quá 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ (Điều 12).
- Quy định cụ thể hơn về thông báo, như loại thông báo, nội dung thông báo; sửa đổi phần quy định về thông báo các thông tin báo chí nêu liên quan đến hoạt động của Ngành (Điểm 6 Điều 8).
- Quy định bổ sung việc gửi báo cáo, tài liệu; trách nhiệm thực hiện chế độ quản lý báo cáo, thông báo (Điều 16, Điều 17).
- Quy định rõ trách nhiệm của các đơn vị thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát cấp tỉnh trong việc quản lý, đánh giá kết quả công tác nghiệp vụ của Viện kiểm sát cấp dưới do đơn vị được giao có trách nhiệm theo dõi, quản lý trong các báo cáo tháng, 6 tháng và một năm (Điều 8); trách nhiệm trong việc tiếp nhận, nghiên cứu nội dung các báo cáo chuyên đề, văn bản pháp lý do Viện kiểm sát cấp dưới gửi đến (Điều 14).
Quy định cụ thể trách nhiệm của các đơn vị trong việc gửi một số loại báo cáo, văn bản pháp lý thay báo cáo cho đơn vị làm công tác tham mưu, tổng hợp cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên (Báo cáo ban đầu, báo cáo đột xuất, một số loại báo cáo theo danh mục B của Quy chế). Bỏ quy định phải gửi đến đơn vị làm công tác tham mưu, tổng hợp một số quyết định tố tụng như (như cáo trạng, quyết định đình chỉ vụ án, đình chỉ vụ án đối với bị can,…) do thực tiễn quy định này không thực sự cần thiết (Điều 10, 11, 14).
CHƯƠNG 3. Quản lý công tác
- Bổ sung quy định rõ hơn về nội dung kế hoạch, chương trình công tác; thời hạn và việc gửi các văn bản trên đến đơn vị làm công tác tham mưu, tổng hợp của Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên (Điều 19). Bổ sung quy định Triển khai thực hiện nhiệm vụ trọng tâm, kế hoạch và chương trình công tác: bổ sung thêm quy định về chương trình công tác quý của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh (Điều 20).
CHƯƠNG 4. Điều khoản thi hành
- Quy định trách nhiệm định kỳ báo cáo, thông báo việc chấp hành Quy chế;  trách nhiệm tổ chức sơ kết, tổng kết việc thực hiện Quy chế (Điều 23).Bổ sung về hiệu lực thi hành của Quy chế (Điều 24).
Ngoài những sửa đổi, bổ sung cơ bản trên, Văn phòng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã rà soát, chỉnh sửa nhiều Điều của Quy chế, đảm bảo những quy định trong Quy chế có kết cấu chặt chẽ, logic hơn, phù hợp, chính xác và dễ hiểu để thực hiện.
2. Chế độ thông tin trong ngành Kiểm sát nhân dân
2.1. Khái niệm chế độ thông tin
Thông tin trong ngành Kiểm sát nhân dân là thông tin chứa đựng nội dung liên quan đến tổ chức, hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nhân dân. Cụ thể, thông tin đó phải liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; thông tin đó cũng có thể liên quan đến công tác tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát, các hoạt động của Viện kiểm sát các cấp để phục vụ công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nhân dân.
Chế độ thông tin trong ngành Kiểm sát nhân dân là các quy định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc cung cấp, tiếp nhận, quản lý và xử lý thông tin trong ngành Kiểm sát nhân dân.
Thông tin trong ngành Kiểm sát nhân dân liên quan đến công tác thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp là những thông tin liên quan đến các khâu công tác, các lĩnh vực thực hiện nhiệm vụ cụ thể của ngành Kiểm sát, bao gồm:
Trong lĩnh vực hình sự là những thông tin liên quan đến: công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; công tác kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành hình phạt tù; công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự; công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự; công tác thi hành án hình sự.
Những thông tin liên quan đến hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao: là những thông tin có chứa đựng dấu hiệu tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền điều tra của Cục Điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Trong lĩnh vực dân sự, hành chính, kinh doanh thương mại; thi hành án dân sự; trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo: là những thông tin phản ánh những dấu hiệu vi phạm pháp luật của cá nhân, tập thể, các tổ chức, cơ quan Nhà nước trong việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hành chính, kinh doanh thương mại; việc tổ chức thi hành án các việc dân sự; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát cũng như liên quan đến trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo về hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp.
Thông tin trong ngành Kiểm sát nhân dân liên quan đến công tác xây dựng Ngành là những thông tin phản ánh những khó khăn, vướng mắc, những bất hợp lý, bất bình thường, dấu hiệu vi phạm pháp luật, dấu hiệu tội phạm trong công tác cụ thể,… gồm:
Công tác tổ chức cán bộ: những thông tin về việc tuyển dụng, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển cán bộ,…; các hoạt động liên quan đến công tác đạo tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ trong Ngành; các hoạt động liên quan đến chế độ, chính sách của đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên,...
Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của Viện kiểm sát các cấp: những thông tin về quản lý công tác nghiệp vụ, quản lý đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên; hoạt động chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo Viện kiểm sát các cấp,…
Công tác nghiên cứu khoa học, xây dựng pháp luật, công tác thông tin tuyên truyền của Ngành: thông tin phản ánh về công tác nghiên cứu, xây dựng pháp luật, công tác tuyên truyền của Ngành.
Công tác đầu tư cơ sở, vật chất, trang bị phương tiện và công tác phục vụ khác: xây dựng dự toán ngân sách, quyết định phân bổ ngân sách, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, phương tiện phục vụ hoạt động chức năng, việc thanh quyết toán,…
2.2. Nguồn của thông tin trong ngành Kiểm sát nhân dân
Nguồn thông tin trong ngành Kiểm sát nhân dân là nguồn gốc, cách thức hình thành thông tin. Tùy theo mỗi cách phân loại mà phân thành các nguồn thông tin khác nhau. Tuy nhiên, theo chúng ta thì cơ bản có những nguồn thông tin trong ngành Kiểm sát như sau:
-Tiếp nhận thông tin qua công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát.
- Qua công tác tiếp công dân, qua đơn khiếu nại, tố cáo, đơn kiến nghị (trực tiếp hoặc gián tiếp) của các cá nhân, tập thể,…
- Thông qua tố giác, tin báo về tội phạm.
- Thông qua các báo cáo, thông báo trong ngành Kiểm sát nhân dân.
- Thông tin phản ánh qua các cuộc họp, hội thảo, giao ban, hội nghị.
-Qua phương tiện truyền thông đại chúng, của địa phương và của Trung ương, như: báo, tạp chí, đài truyền thanh, đài truyền hình, mạng internet,…
- Thông tin qua các nguồn khác.
2.3. Tính chất, vai trò kết cấu của chế độ thông tin, báo cáo
- Chế độ thông tin, báo cáo là những quy định quan trọng được Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành, yêu cầu Viện kiểm sát các cấp quán triệt thực hiện nghiêm túc, thống nhất trong toàn Ngành; giúp cho Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao nắm bắt tình hình, quản lý, chỉ đạo, điều hành công tác trong toàn Ngành.
- Chế độ thông tin, báo cáo là công cụ, phương tiện quan trọng của Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp, Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc trong việc nắm bắt thông tin về tình hình vi phạm, tội phạm ở mỗi địa phương, trên toàn quốc; nắm bắt về tổ chức hoạt động và tình hình, kết quả công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mỗi đơn vị, Viện kiểm sát các cấp và toàn Ngành. Trên cơ sở đó có những hoạt động lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo, điều hành một cách kịp thời, chính xác, hiệu quả đảm bảo mỗi đơn vị, Viện kiểm sát địa phương và toàn Ngành hoàn thành và ngày càng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ góp phần công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm, giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội.
- Chế độ thông tin, báo cáo được xây dựng từ những quy định trong các điều Quy chế về chế độ thông tin, báo cáo và quản lý công tác trong ngành Kiểm sát nhân dân (17 Điều), gồm hai phần chính sau:
+ Chế độ về thông tin báo cáo: Đây chính là những quy định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc tiếp nhận, thu thập, phân loại, quản lý thông tin báo cáo nói chung trong Ngành.
+ Chế độ về báo cáo: là tập hợp các quy định cụ thể của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc thu thập tài liệu xây dựng các báo cáo, gửi các loại báo cáo cụ thể (báo cáo tuần, tháng 6 tháng, một năm,…) đảm bảo các yêu cầu về hình thức, nội dung, thời điểm lấy số liệu, thời hạn xây dựng, gửi và những nơi phải báo cáo, gửi báo cáo.
2.4. Yêu cầu trong việc thực hiện chế độ thông tin, báo cáo
- Thông tin, báo cáo của Viện kiểm sát các cấp phải đảm bảo đầy đủ, chính xác: Viện kiểm sát các cấp phải nắm đầy đủ, chính xác các thông tin có liên quan đến tổ chức hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của đơn vị mình và Viện kiểm sát cấp mình và báo cáo phải đảm bảo đầy đủ thông tin, phản ánh trung thực, khách quan vụ việc, số liệu có độ chính xác cao.
- Thông tin, báo cáo phải kịp thời, đúng thời gian quy định: Viện kiểm sát các cấp phải cung cấp thông tin, báo cáo ngay những thông tin liên quan đến tổ chức hoạt động, việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của đơn vị mình, Viện kiểm sát cấp mình hoặc cá nhân thực hiện. Báo cáo phải được xây dựng, gửi đúng thời điểm, thời hạn quy định trong Quy chế hoặc theo yêu cầu cụ thể.
- Thông tin, báo cáo phải tuân thủ các quy định của pháp luật và của Ngành: Thông tin, báo cáo phải đảm bảo đúng quy định của pháp luật về thể thức, hình thức, chế độ bảo mật, quy định về phát ngôn,…; nội dung, trình tự, phương thức thông tin,… phải đúng quy định của Ngành.
- Thông tin, báo cáo trong Ngành phải tuân thủ nguyên tắc tập trung thống nhất: Chỉ đạo hoạt động thông tin, báo chí phải được quán triệt, thực hiện thống nhất từ Viện kiểm sát nhân dân tối cao đến Viện kiểm sát cấp huyện; thông tin, báo cáo phải thống nhất từ Viện kiểm sát cấp huyện và tập trung báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Viện trưởng Viện kiểm sát cấp dưới phải chịu trách nhiệm với Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên, các đơn vị, cá nhân phải chịu trách nhiệm trước Viện trưởng Viện kiểm sát cấp mình về về thông tin, báo cáo của mình. Người ký báo cáo phải chịu trách nhiệm về nội dung, số liệu của báo cáo.
- Để thực hiện hiệu quả chế độ thông tin, báo cáo thì các đơn vị, bộ phận làm công tác tổng hợp cần:
+ Lập hệ thống sổ thụ lý, theo dõi thông tin một cách đầy đủ, khoa học. Phân công cụ thể trách nhiệm tổ chức thu thập, tiếp nhận thông tin đầy đủ, toàn diện, đảm bảo chất lượng, rõ nguồn gốc thông tin; phân loại, cập nhật đầy đủ, chính xác vào sổ thụ lý, theo dõi thông tin.
+ Tiếp nhận, nghiên cu đề xuất phương án xử lý thông tin kịp thời, đúng pháp luật. Đối với những thông tin quan trọng thì phải được báo cáo ngay với lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện để có biện pháp xử lý kịp thời.
+ Quản lý thông tin một cách chặt chẽ, định kỳ kiểm tra tiếp nhận, xử lý thông tin, việc thực hiện các quyết định xử lý thông tin trong ngành.
3. Chế độ báo cáo trong ngành Kiểm sát nhân dân
3.1. Khái niệm chế độ báo cáo
- Báo cáo trong ngành Kiểm sát nhân dân là quan hệ quản lý, lãnh đạo, trong đó Viện kiểm sát cấp dưới, các đơn vị trực thuộc, các cá nhân (là những đối tượng bị quản lý) có nghĩa vụ báo cáo Viện kiểm sát cấp trên, lãnh đạo Viện kiểm sát cùng cấp (là chủ thể quản lý) những nội dung theo quy định.
- Báo cáo trong ngành Kiểm sát nhân dân có đặc trưng của báo cáo nói chung: vừa là hình thức thông tin trong ngành vừa là phương thức thực hiện quyền quản lý của lãnh đạo Viện kiểm sát các cấp và Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc. Báo cáo chứa đựng nội dung phản ánh sự thật khách quan về tình hình, kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao trong khoảng thời gian nhất định, những đề xuất kiến nghị, phương hướng nhiệm vụ cần phải thực hiện. Báo cáo thể hiện chủ yếu dưới dạng văn bản.
- Các báo cáo trong ngành Kiểm sát nhân dân đều có nội dung phản ánh tổ chức, hoạt động và kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành. Tuy nhiên, mỗi loại báo cáo có phạm vi, thời gian, đối tượng, mục đích phản ánh ở mức độ khác nhau nên có đặc trưng, tính chất báo cáo khác nhau, do đó có những quy định cụ thể về nội dung, hình thức, thời gian, thời điểm xây dựng, gửi, nơi gửi mỗi loại báo cáo nhất định.
- Chế độ báo cáo trong ngành Kiểm sát nhân dân là các quy định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc xây dựng và gửi các loại báo cáo của Viện kiểm sát các cấp và các đơn vị trực thuộc (Được quy định tập trung từ Điều 6 đến Điều 17 của Quy chế 379).
3.2. Phân loại báo cáo và số lượng báo cáo
Theo Quy chế về chế độ thông tin báo cáo và quản lý công tác trong ngành Kiểm sát thì hiện nay chúng ta có các loại báo cáo sau:
3.2.1. Báo cáo gửi các cơ quan của Đảng, Nhà nước:
1. Báo cáo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại các kỳ họp Quốc hội; báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội giữa các kỳ họp của Quốc hội; báo cáo Chủ tịch nước.
2. Báo cáo của Viện kiểm sát nhân dân tối cao gửi: Văn phòng Trung ương Đảng, Ủy Ban kiểm tra Trung ương, Ban Tổ chức Trung ương, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước, Ủy ban Pháp luật và Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
3. Báo cáo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương trước Hội đồng nhân dân và cấp ủy đảng cùng cấp.
4. Báo cáo gửi các cơ quan khác của Đảng, Nhà nước, Quốc hội khi cần thiết hoặc khi có yêu cầu.
3.2.2. Các loại báo cáo trong ngành Kiểm sát nhân dân:
1. Báo cáo công tác tuần;
2. Báo cáo công tác kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam và xử lý tuần;
3. Báo cáo công tác tháng;
4. Báo cáo công tác quý;
5. Báo cáo sơ kết công tác 6 tháng đầu năm;
6. Báo cáo tổng kết công tác năm;
7. Các Báo cáo thống kê định kỳ;
8. Báo cáo tổng kết công tác thi đua, khen thưởng năm;
9. Báo cáo tài chính theo quy định của pháp luật;
10. Báo cáo về việc tiếp nhận, xử lý những thông tin báo chí nêu.
11. Báo cáo ban đầu;
12. Báo cáo đột xuất;
13. Báo cáo thỉnh thị;
14. Báo cáo chuyên đề và các văn bản pháp lý khác;
14. Báo cáo theo quy chế nghiệp vụ;
16. Báo cáo khác khi có yêu cầu.
3.3. Thời điểm và thời hạn của báo cáo
3.3.1. Thời gian lấy số liệu, nội dung và thời hạn gửi báo cáo phục vụ việc xây dựng các loại báo cáo gửi các cơ quan Đảng, Nhà nước thực hiện theo yêu cầu của cơ quan yêu cầu báo cáo hoặc yêu cầu của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
3.3.2. Thời gian lấy số liệu, nội dung và thời hạn gửi các báo cáo định kỳ, gồm các báo cáo công tác tuần, tháng, quý, 6 tháng đầu năm, báo cáo tổng kết năm và các báo cáo thống kê định kỳ được quy định tại Điều 8 và Điều 9 của Quy chế. So với Quy chế 198 có một số sửa đổi, bổ sung sau:
- Quy định cụ thể, hợp lý hơn về thời điểm lấy số liệu, gửi một số loại báo cáo đảm bảo yêu cầu chặt chẽ về thời gian tại Điều 8 (báo cáo tuần, tháng, sơ kết 6 tháng đầu năm và báo cáo tổng kết công tác năm, báo cáo tổng kết công tác thi đua, khen thưởng, như: Thời điểm lấy số liệu thống kê để xây dựng Báo cáo sơ kết công tác 6 tháng đầu năm tính từ ngày 01 tháng 12 của năm trước đến hết ngày 31 tháng 5 của năm báo cáo. Thời điểm lấy số liệu thống kê để xây dựng Báo cáo tổng kết công tác năm tính từ ngày 01 tháng 12 của năm trước đến hết ngày 30 tháng 11 của năm báo cáo).
- Quy định rõ trách nhiệm của các đơn vị thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát cấp tỉnh trong việc quản lý, đánh giá kết quả công tác nghiệp vụ của Viện kiểm sát cấp dưới do đơn vị được giao có trách nhiệm theo dõi, quản lý trong các báo cáo tháng, 6 tháng và một năm (Điều 8).
- Bổ sung quy định về báo cáo công tác quý của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, nhằm đánh giá tiến độ thực hiện kế hoạch công tác; chất lượng, hiệu quả công tác trong mỗi quý.
- Bổ sung quy định về báo cáo về việc tiếp nhận xử lý thông tin liên quan đến hoạt động của Ngành. Nhằm đảm bảo việc nắm bắt thông tin, chỉ đạo, xử lý và quản lý trong toàn Ngành, phục vụ hiệu quả công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành chung của Viện kiểm sát các cấp và của toàn Ngành (Điểm 6 Điều 8).
- Quy định thời điểm lấy số liệu, xây dựng và gửi báo cáo tổng kết công tác thi đua khen thưởng phù hợp với báo cáo tổng kết công tác, khắc phục quy định bất hợp lý về thời điểm, thời hạn Báo cáo tổng kết công tác thi đua (Điểm 7, Điều 8).
- Sửa đổi, bổ sung quy định về thời điểm, thời hạn Báo cáo thống kê. Quy định thời điểm thống kê số liệu 6 tháng đầu năm trùng với thời điểm lấy số liệu phục vụ việc sơ kết công tác 6 tháng đầu năm để phục vụ công tác sơ kết công tác 6 tháng của đơn vị và toàn Ngành; quy định chặt chẽ hơn, rút ngắn thời gian xây dựng báo cáo, yêu cầu công tác xây dựng các báo cáo thống kê phải khẩn trương hơn, đảm bảo việc sơ kết, tổng kết, triển khai công tác kịp thời hơn (Điều 9).
Bổ sung quy định về việc sử dụng báo cáo thống kê để xây dựng báo cáo tổng hợp, xây dựng chuyên đề; quy định rõ trường hợp báo cáo thống kê không có các chỉ tiêu cần thì việc yêu cầu Viện kiểm sát địa phương báo cáo bổ sung phải do Viện trưởng quyết định, hạn chế việc nhiều đơn vị cùng yêu cầu các đơn vị, các Viện kiểm sát địa phương cung cấp số liệu ngoài báo cáo thống kê (Điều 9).
3.3.3. Nội dung và thời hạn gửi báo cáo, ban đầu, báo cáo đột xuất, thời hạn trả lời báo cáo báo cáo thỉnh thị được quy định cụ thể tại các Điều 10, Điều 11 và Điều 12 của Quy chế. So với Quy chế 198 có một số sửa đổi, bổ sung sau:
- Quy định cụ thể trách nhiệm của các đơn vị trong việc gửi một số loại báo cáo, văn bản pháp lý thay báo cáo cho đơn vị làm công tác tham mưu, tổng hợp cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên (Báo cáo ban đầu, báo cáo đột xuất, một số loại báo cáo theo danh mục B của Quy chế). Bỏ quy định phải gửi đến đơn vị làm công tác tham mưu, tổng hợp một số quyết định tố tụng như (như cáo trạng, quyết định đình chỉ vụ án, đình chỉ vụ án đối với bị can,…) do thực tiễn quy định này không thực sự cần thiết (Điều 10, 11, 14).
- Quy định bổ sung một số loại việc Viện kiểm sát cấp dưới phải báo cáo đột xuất, để phục vụ kịp thời công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của Viện kiểm sát cấp trên: Viện kiểm sát cấp dưới phải báo cáo ngay với Viện kiểm sát cấp trên các trường hợp Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trả tự do do không phạm tội; quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án do bị can không phạm tội; Viện kiểm sát truy tố, Toà án tuyên không phạm tội; các vụ án dân sự bị hình sự hoá và ngược lại và những vụ trốn khỏi nhà tạm giữ, trại tạm giam, trại giam (Điều 11).
- Quy định chặt chẽ trách nhiệm trả lời báo cáo thỉnh thị của Viện kiểm sát cấp trên: Thời hạn trả lời thỉnh thị không quá 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ (Điều 12).
- Quy định bổ sung trách nhiệm gửi các báo cáo chuyên đề, văn bản pháp lý cho đơn vị làm công tác tham mưu, tổng hợp của Viện kiểm sát cấp tỉnh; việc gửi tài liệu đến các đơn vị thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao của các phòng thuộc Viện kiểm sát cấp tỉnh đảm nhiệm nhiều nhiệm vụ; trách nhiệm của Viện kiểm sát cấp trên trong việc tiếp nhận, nghiên cứu nội dung các báo cáo chuyên đề, văn bản pháp lý do Viện kiểm sát cấp dưới gửi đến (Điều 14).
- Quy định cụ thể hơn về thông báo, như loại thông báo, nội dung thông báo; sửa đổi phần quy định về thông báo các thông tin báo chí nêu liên quan đến hoạt động của Ngành (Điểm 6 Điều 8).
3.3.4. Đối với những báo cáo chuyên đề, báo cáo theo quy chế nghiệp vụ và các báo cáo khác thì thời gian lấy số liệu, nội dung và thời hạn gửi báo cáo được quy định trong quy chế nghiệp vụ hoặc trong văn bản yêu cầu báo cáo. Chế độ các báo cáo này được quy định cụ thể tại các Điều 10, Điều 11, Điều 12, Điều 13 và Điều 14 của Quy chế. So với Quy chế 198 có một số sửa đổi, bổ sung sau:
Quy định cụ thể trách nhiệm của các đơn vị trong việc gửi một số loại báo cáo, văn bản pháp lý thay báo cáo cho đơn vị làm công tác tham mưu, tổng hợp cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên (Báo cáo ban đầu, báo cáo đột xuất, một số loại báo cáo theo danh mục B của Quy chế). Bỏ quy định phải gửi cho đơn vị làm công tác tham mưu, tổng hợp một số quyết định tố tụng như (như cáo trạng, quyết định đình chỉ vụ án, đình chỉ vụ án đối với bị can,…) do thực tiễn quy định này không thực sự cần thiết (Điều 10, 11, 14).
Bổ sung trách nhiệm gửi các báo cáo chuyên đề, văn bản pháp lý cho đơn vị làm công tác tham mưu, tổng hợp của Viện kiểm sát cấp tỉnh; việc gửi tài liệu đến các đơn vị thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao của các phòng thuộc Viện kiểm sát cấp tỉnh đảm nhiệm nhiều nhiệm vụ; trách nhiệm của Viện kiểm sát cấp trên trong việc tiếp nhận, nghiên cứu nội dung các báo cáo chuyên đề, văn bản pháp lý do Viện kiểm sát cấp dưới gửi đến (Điều 14).
3.4. Công tác tổ chức, theo dõi, tổng hợp xây dựng báo cáo
- Để thực hiện tốt chế độ báo cáo trong Ngành, mỗi đơn vị, Viện kiểm sát các cấp phải tổ chức, phân công cán bộ làm công tác tham mưu, tổng hợp một cách phù hợp, thường xuyên theo dõi nắm chắc tình hình vi phạm, tội phạm và kết quả công tác của Viện kiểm sát cấp mình và cấp dưới; làm tốt công tác thu thập, xử lý, quản lý và thông tin.
- Quá trình xây dựng báo cáo cần linh hoạt tổ chức, bố trí cán bộ phù hợp để tiến hành việc xây dựng báo cáo. Đối với các báo cáo ngắn hạn, báo cáo yêu cầu thời gian gấp, thì cần phân công, bố trí phù hợp với khối lượng công việc để đảm bảo về thời gian. Các báo cáo định kỳ (báo cáo tháng, 6 tháng, báo cáo năm) đã được quy định cụ thể về thời điểm, thời hạn, nội dung,… vì vậy, để hoàn thành tốt các báo cáo này, các đơn vị cần chủ động dự thảo báo cáo trước, nhất là đối với các báo cáo quan trọng, thời gian chuẩn bị không nhiều, tránh bị động. Đối với những báo cáo quan trọng, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp, Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc cần chỉ đạo chặt chẽ và có ý kiến định hướng cho bộ phận và cán bộ làm công tác tham mưu, tổng hợp chuẩn bị đề cương, dự thảo báo cáo ngay từ đầu.
- Báo cáo phải đảm bảo chất lượng, nội dung thông tin, ngắn gọn, xúc tích, đánh giá rõ thực tế tình hình, kết quả thực hiện các mặt công tác, nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót, có số liệu dẫn chứng, phụ lục rõ ràng, đầy đủ. Báo cáo đảm bảo đúng nguyên tắc bảo vệ bí mật Nhà nước trong cung cấp, tiếp nhận thông tin và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của thông tin báo cáo do đơn vị mình cung cấp; phải được cán bộ có thẩm quyền duyệt ký đúng quy định.
- Tùy theo tính chất, yêu cầu của mỗi loại báo cáo nhất định để có sự quan tâm, đầu tư thỏa đáng. Đối với những báo cáo ngắn hạn, như báo cáo tuần do thời gian chuẩn bị xây dựng ngắn nên cần tập trung phản ánh vào những hoạt động, kết quả công tác trọng tâm, điển hình của đơn vị, những kiến nghị mang tính cấp thiết; hoặc báo cáo đột xuất, báo cáo ban đầu thì nội dung phải chứa đầy đủ thông tin để cấp nghe báo cáo nắm và có thể chỉ đạo được kịp thời tuy nhiên, thông tin phải ngắn gọn, chắt lọc, hạn chế đưa những thông tin thừa, không cần thiết đối với cấp được báo cáo. Đối với các báo cáo sơ kết, tổng kết công tác năm cần có sự đầu tư, chuẩn bị kỹ, số liệu thống nhất, chính xác, thông tin phản ánh một cách khái quát nhưng đầy đủ; các phân tích, đánh giá sâu sát, khách quan,…
Những vấn đề, nội dung cụ thể về phương pháp tổng hợp, xây dựng báo cáo  sẽ được trình bày ở Chuyên đề phương pháp tham mưu, tổng hợp và xây dựng báo cáo trong ngành Kiểm sát  trong hội nghị tập huấn lần này.
4. Chế độ quản lý công tác trong ngành Kiểm sát nhân dân
4.1. Khái niệm, nguyên tắc
- Chế độ quản lý công tác trong ngành Kiểm sát nhân dân là các quy định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về xác định nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Chỉ thị, Kế hoạch, Chương trình công tác, việc theo dõi, kiểm tra và đánh giá kết quả công tác.
Chỉ thị, kế hoạch công tác của Viện kiểm sát các cấp là văn bản xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ và những biện pháp tổ chức thực hiện để đạt mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra trong khoảng thời gian nhất định.
Chương trình công tác là văn bản cụ thể hóa nhiệm vụ để thực hiện kế hoạch công tác trong thời gian nhất định (một năm, một quý,…). Chương trình công tác thường được xây dựng để cụ thể hóa việc thực hiện kế hoạch công tác trong từng khâu công tác nghiệp vụ do các đơn vị phụ trách.
- Việc xác định nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng kế hoạch, chương trình công tác và kiểm tra việc thực hiện được tiến hành theo nguyên tắc tập trung, thống nhất trong Ngành; tuân thủ đúng pháp luật và phù hợp với thực tiễn. Từ Viện kiểm sát nhân dân tối cao đến Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, đến Viện kiểm sát quân sự đều thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm chung, triển khai các biện pháp, với chỉ tiêu cơ bản thống nhất nhằm tập trung thực hiện thống nhất chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
4.2. Mục đích, yêu cầu
- Chế độ quản lý công tác trong ngành Kiểm sát nhân dân nhằm bảo đảm cho lãnh đạo Viện kiểm sát các cấp nắm chắc, nắm đầy đủ, chính xác toàn bộ hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của đơn vị mình, của toàn Ngành. Từ đó có sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành hoạt động thực hiện nhiệm vụ trong mỗi đơn vị và trong toàn Ngành một cách chính xác, kịp thời, đảm bảo hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nhân dân.
- Để đảm bảo cho các đơn vị trong Ngành triển khai, thực hiện nhiệm vụ một cách khoa học, chính xác, hiệu quả, phù hợp với tình hình thực tiễn và khả năng của từng cấp, mỗi đơn vị. Đồng thời, góp phần nâng cao trình độ, năng lực tổ chức thực hiện công tác của Viện kiểm sát các cấp, các đơn vị và cán bộ trong Ngành.
- Là căn cứ để kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ công tác của mỗi đơn vị, Viện kiểm sát các cấp trong thời gian nhất định, kịp thời chấn chỉnh, khắc phục hạn chế, thiếu sót trong quá trình thực hiện Chỉ thị, Kế hoạch, Chương trình công tác.
- Chỉ thị, Kế hoạch, Chương trình công tác phải bám sát các yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Ngành, các nhiệm vụ chính trị do Đảng, Nhà nước đề ra trong từng giai đoạn cụ thể; bám sát tình hình thực tiễn của địa phương, đồng thời phải phù hợp với khả năng, điều kiện của đơn vị, đảm bảo tính khả thi.
- Chỉ thị, Kế hoạch, Chương trình công tác phải xác định nhiệm vụ toàn diện, đầy đủ; phải xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm để tập trung chỉ đạo; có biện pháp cụ thể để tổ chức thực hiện hiệu quả. Xác định rõ trách nhiệm của mỗi đơn vị, bộ phận và thời gian hoàn thành, yêu cầu cụ thể đối với mỗi nhiệm vụ.
- Viện kiểm sát các cấp chỉ đạo các đơn vị, bộ phận làm công tác tham mưu, tổng hợp phải chủ động trong việc xây dựng Chỉ thị, Kế hoạch, Chương trình công tác, văn bản hướng dẫn công tác để kịp thời ban hành, triển khai thực hiện đúng thời gian, đảm bảo tiến độ.
4.3. Công tác xây dựng Chỉ thị, Kế hoạch, Chương trình công tác
- Chỉ thị, Kế hoạch và Chương trình công tác của các đơn vị trong Ngành là văn bản tổng hợp những mục tiêu của Ngành, mục tiêu cụ thể của mỗi đơn vị; những nhiệm vụ trọng tâm cụ thể hóa mục tiêu; đồng thời xây dựng, đề ra những biện pháp, giải pháp để tổ chức, triển khai thực hiện nhằm đạt mục tiêu, mục đích. Việc xác định nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Kế hoạch, Chương trình công tác trong ngành Kiểm sát được quy định tại Điều 19 Quy chế; quy định rõ hơn về nội dung Kế hoạch, Chương trình công tác; thời hạn và việc gửi các văn bản trên đến đơn vị làm công tác tham mưu, tổng hợp của Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên.
- Chỉ thị, Kế hoạch, Chương trình công tác xây dựng trên cơ sở:
+ Nắm rõ chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân do pháp luật quy định trên cơ sở đó mới xác định đúng nhiệm vụ, yêu cầu, mục tiêu đề ra.
+ Nghiên cứu kỹ các Nghị quyết của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế-xã hội trong mỗi năm, giai đoạn nhất định để quán triệt, triển khai các nội dung liên quan vào các nhiệm vụ cụ thể của Ngành, của từng đơn vị.
+ Đánh giá kết quả công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mỗi đơn vị, Viện kiểm sát các cấp và của toàn Ngành thông qua việc kiểm tra, theo dõi kết quả công tác thường xuyên, kết quả kiểm tra công tác định kỳ và đặc biệt là kết quả sơ kết, tổng kết công tác năm. Từ kết quả tích cực đã đạt được, những hạn chế, vướng mắc, khuyết điểm và nguyên nhân để có những mục đích, nhiệm vụ, giải pháp để phát huy những thành tích đã đạt, hạn chế, khắc phục thiếu sót, khuyết điểm.
+ Từ những yêu cầu nhiệm công tác cụ thể mỗi năm, mỗi giai đoạn nhất định của toàn Ngành, từ yêu cầu nhiệm vụ chính trị địa phương, đồng thời phải phù hợp với khả năng về tổ chức, bộ máy, biên chế, điều kiện, phương tiện vật chất cụ thể để mỗi đơn vị để đề ra các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, thiếu sót nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ hoàn thành các chỉ tiêu của đơn vị, của Ngành.
- Kế hoạch, Chương trình công tác của Viện kiểm sát cấp dưới, của các đơn vị trực thuộc có những đặc trưng riêng của đơn vị mình. Tuy nhiên, về những nhiệm vụ trọng tâm, các chỉ tiêu, yêu cầu quan trọng phải thống nhất, bám sát, cụ thể hóa Chỉ thị, Kế hoạch, Hướng dẫn nghiệp vụ của Viện kiểm sát cấp trên.
- Quá trình xây dựng Kế hoạch, Chương trình công tác cần xem xét, cân nhắc các yếu tố khách quan tác động trực tiếp đến việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của từng cấp kiểm sát, từng đơn vị.
- Bổ sung quy định rõ hơn về nội dung kế hoạch, chương trình công tác; thời hạn và việc gửi các văn bản trên đến đơn vị làm công tác tham mưu, tổng hợp của Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên (Điều 19).
- Bổ sung quy định Triển khai thực hiện nhiệm vụ trọng tâm, kế hoạch và chương trình công tác: bổ sung thêm quy định về chương trình công tác quý của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh (Điều 20).
4.4. Công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện Chỉ thị, Kế hoạch, Chương trình công tác
- Đây là công tác có vai trò quan trọng trong hoạt động quản lý của ngành Kiểm sát nhân dân. Để đảm bảo nguyên tắc tập trung, thống nhất trong Ngành; đảm bảo các Kế hoạch, Chương trình công tác được thống nhất, quan triệt, thể hiện đầy đủ, chính xác những chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên thì đơn vị, bộ phận làm công tác tham mưu, tổng hợp của Viện kiểm sát các cấp có trách nhiệm kiểm tra, rà soát các bản Kế hoạch, Chương trình của Viện kiểm sát cấp dưới, của các đơn vị trực thuộc để kịp thời phát hiện những sai sót, chấn chỉnh.
- Sau khi ban hành Chỉ thị, Kế hoạch, Chương trình công tác, Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp, Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc tổ chức triển khai, thực hiện Kế hoạch, Chương trình của đơn vị mình.
- Đơn vị, bộ phận làm công tác tham mưu, tổng hợp phân công, bố trí cán bộ phải thường xuyên theo dõi, đôn đốc các đơn vị trong việc triển khai, thực hiện Kế hoạch, Chương trình công tác đúng tiến độ; thực hiện đầy đủ, hiệu quả các biện pháp nhằm đạt các chỉ tiêu, hoàn thành các nhiệm vụ nêu trong Chỉ thị công tác của Ngành, được xác định trong Kế hoạch, Chương trình công tác của mỗi đơn vị.
- Tham mưu, đề xuất những nội dung cần kiểm tra, những đơn vị cần phải kiểm tra,... Định kỳ, tổ chức kiểm tra việc triển khai; tham mưu tổ chức kiểm tra kết quả việc thực hiện Chỉ thị, Kế hoạch, Chương trình công tác ở từng khâu công tác hoặc kiểm tra toàn diện kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mỗi đơn vị trực thuộc hoặc Viện kiểm sát cấp dưới (công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, công tác xây dựng ngành).
- Qua theo dõi, kiểm tra hoạt động thực tiễn thực hiện chức năng, nhiệm vụ ngoài việc đánh giá kết quả đạt được những hạn chế, thiếu sót để tham mưu, đề xuất thực hiện biện pháp nhằm kịp thời khắc phục, để hoàn thành kế hoạch công tác đã đặt ra. Chú trọng tiếp nhận các kiến nghị; chủ động phát hiện, nắm bắt những vấn đề bất cập, vướng mắc, khó khăn của Viện kiểm sát cấp dưới, xác định nguyên nhân để tổng hợp, báo cáo đề xuất với lãnh đạo Viện những giải pháp khắc phục, giải quyết một cách toàn diện, hiệu quả.
4.5. Công tác đánh giá tình hình, kết quả thực hiện Chỉ thị, Kế hoạch, Chương trình công tác
- Thường xuyên theo dõi thông qua các nguồn thông tin (cả những thông tin từ những cơ quan, ngành khác) để nắm bắt tình hình hoạt động, kết quả công tác của các đơn vị trực thuộc, Viện kiểm sát cấp dưới để tiến hành phân tích, đối chiếu, so sánh và tổng hợp đưa ra những nhận định, đánh giá kết quả công tác của từng đơn vị và của chung toàn Ngành.
- Kết hợp với kết quả công tác kiểm tra trực tiếp tổng hợp, đánh giá kết quả hoạt động của mỗi đơn vị trực thuộc, Viện kiểm sát cấp dưới và của toàn Ngành.
- Quá trình phân tích, tổng hợp, đánh giá kết quả công tác phải căn cứ vào chức năng, các nhiệm vụ cụ thể của Viện kiểm sát đã được pháp luật và các văn bản khác của Ngành quy định.
- Nhằm góp phần bảo đảm việc đánh giá khách quan, chính xác tiến độ, chất lượng, hiệu quả công tác nghiệp vụ của Viện kiểm sát các cấp, các đơn vị trực thuộc và của toàn ngành Kiểm sát nhân dân, vừa qua Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành Hệ thống chỉ tiêu cơ bản đánh giá kết quả công tác nghiệp vụ trong ngành Kiểm sát nhân dân ban hành kèm theo Quyết định số 297/QĐ-VKSTC ngày 13/6/2012 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Chuyên đề về hệ thống các chỉ tiêu nghiệp vụ cơ bản đánh giá kết quả công tác nghiệp vụ trong ngành Kiểm sát nhân dân sẽ được trình bày riêng trong hội nghị này). Viện kiểm sát các cấp cần nghiên cứu, áp dụng hệ thống chỉ tiêu nêu trên trong quá trình tổng hợp, đánh giá kết quả công tác của các đơn vị.
III. NHỮNG YÊU CẦU NHẰM THỰC HIỆN TỐT CHẾ ĐỘ THÔNG TIN, BÁO CÁO VÀ QUẢN LÝ TRONG NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1. Quán triệt, thực hiện
- Để thực hiện tốt chế độ thông tin, báo cáo và quản lý công tác trong ngành Kiểm sát nhân dân thì trước hết các đồng chí Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp, lãnh đạo các đơn vị được giao phụ trách công tác tham mưu, tổng hợp phải có nhận thức đúng về vị trí, vai trò và tầm quan trọng và những yêu cầu của công tác thông tin, báo cáo và quản lý công tác trong ngành. Xác định rõ việc chấp hành chế độ thông tin, báo cáo và quản lý công tác trong Ngành là một nhiệm vụ có tính chất nguyên tắc trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành. Đồng thời, quán triệt đến toàn thể cán bộ, Kiểm sát viên trong đơn vị, nhất là những cán bộ làm công tác tham mưu, tổng hợp.
- Việc chấp hành chế độ thông tin, báo cáo và quản lý công tác trong ngành Kiểm sát nhân dân của Viện kiểm sát các cấp, các đơn vị trực thuộc và cán bộ, công chức trong Ngành phải được quy định là một trong những tiêu chí xem xét đánh giá việc hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch, bình xét các danh hiệu thi đua hàng năm của cá nhân, đơn vị.
- Quy chế về chế độ thông tin, báo cáo và quản lý trong ngành Kiểm sát nhân dân vừa được ban hành có nhiều sửa đổi, bổ sung nhằm bảo đảm công tác thông tin, báo cáo ngày càng đầy đủ, nhanh chóng, kịp thời hơn. Do đó, đòi hỏi Viện kiểm sát các cấp cần quán triệt những nội dung vừa được sửa đổi cho cán bộ làm công tác này, đồng thời tổ chức việc thực hiện hiệu quả nhất công tác báo cáo trong đơn vị.
2. Công tác tổ chức cán bộ
- Tổ chức bộ máy làm công tác tham mưu, tổng hợp: Viện kiểm sát các cấp cần nghiên cứu tổ chức bộ máy, cơ cấu cán bộ, Kiểm sát viên cho đơn vị làm công tác tham mưu, tổng hợp ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Viện kiểm sát cấp huyện cho tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao, có những quy định cụ thể nhằm tạo cơ chế, vị thế để cán bộ cán bộ làm công tác tham mưu, tổng hợp có đủ các điều kiện đảm bảo hoàn thành tốt, thực hiện hiệu quả công tác tham mưu, tổng hợp.
- Công tác tham mưu, tổng hợp là công tác nghiệp vụ và có những yêu cầu, đòi hỏi cao đối với đội ngũ cán bộ làm công tác này. Vì vậy, các đồng chí Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp phải quan tâm lựa chọn, bồi dưỡng và kiện toàn đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên làm công tác tham mưu, tổng hợp, cả về số lượng, chất lượng. Cán bộ làm công tác tham mưu, tổng hợp phải là cán bộ chuyên trách, không kiêm nhiệm; là những cán bộ có năng lực, trình độ, kinh nghiệm trong công tác kiểm sát mới có thể đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ.
- Nêu cao vai trò, trách nhiệm của mỗi các nhân trong việc thực hiện Quy chế; trước hết là trách nhiệm của đồng chí Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp, Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc; của đồng chí Chánh Văn phòng, Phó Chánh Văn phòng (phụ trách công tác tham mưu, tổng hợp) trong việc tổ chức thực hiện, kiểm tra việc chấp hành Quy chế.
- Cán bộ làm công tác tham mưu, tổng hợp phải thường xuyên cập nhật, nắm bắt những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật liên quan đến hoạt động của Ngành; phải nghiên cứu nắm vững chức năng, nhiệm vụ của Ngành, của từng khâu công tác, những nhiệm vụ trọng tâm của Ngành trong những thời gian cụ thể; nội dung chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong Chỉ thị công tác năm, các Chỉ thị nghiệp vụ, kế hoạch, chương trình và hướng dẫn công tác, các văn bản liên quan khác của VKSND tối cao cũng như của đơn vị mình. Đồng thời, phải chuẩn bị thông tin, tư liệu đầy đủ, chính xác, nắm chắc tình hình tội phạm, kết quả công tác của đơn vị, của ngành trong thời điểm nhất định.
3. Xây dựng, hoàn thiện Quy chế hoạt động của Văn phòng
Các đơn vị tiến hành rà soát, sửa đổi, hoàn thiện Quy chế về tổ chức hoạt động của Văn phòng. Do yêu cầu của công tác thông tin, báo cáo và quản lý trong ngành ngày càng cao, đặc biệt là về chất lượng và thời gian nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong ngành, nên trong Quy chế về tổ chức hoạt động của Văn phòng cần đặc biệt chú ý xây dựng các quy định về tổ chức hoạt động của bộ phận làm công tác tham mưu, tổng hợp.
- Tùy thuộc vào mỗi cấp kiểm sát để quy định cụ thể về tổ chức hoạt động cho phù hợp, đảm bảo hiệu quả công tác. Ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao tổ chức Phòng Tổng hợp, ở Viện kiểm sát cấp tỉnh có bộ phận tham mưu, tổng hợp thuộc Văn phòng hoặc Phòng Thống kê-Tổng hợp, ở Viện kiểm sát cấp huyện thì bố trí cán bộ hoặc bộ phận làm công tác tham mưu, tổng hợp.
- Trong Quy chế về tổ chức hoạt động phải xác định đầy đủ, cụ thể chức năng, các nhiệm vụ cụ thể của đơn vị hoặc bộ phận làm công tác tham mưu, tổng hợp. Phải có sự phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng bộ phận hoặc mỗi cán bộ đảm nhiệm: công tác tiếp nhận, thu thập, theo dõi, quản lý thông tin; công tác tổng hợp xây dựng báo cáo (phân công cán bộ xây dựng các loại báo cáo ngắn hạn, dài hạn,... nhất định); phân công việc theo dõi hoạt động của các đơn vị trực thuộc, các đơn vị cấp dưới trực tiếp; tổ chức kiểm tra việc thực hiện các kế hoạch, chương trình công tác, đánh giá kết quả công tác.
- Căn cứ vào quy định trong Quy chế này, Viện kiểm sát các cấp, các đơn vị thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng đồng bộ các quy chế về chức trách, lề lối làm việc của đơn vị và các khâu công tác cho phù hợp với Quy chế này.
4. Cơ chế hoạt động của bộ phận làm công tác tham mưu, tổng hợp
- Các đồng chí Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp, Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc cần có những quy định cụ thể để tạo ra cơ chế cho đơn vị, cán bộ làm công tác tham mưu, tổng hợp có điều kiện thuận lợi trong việc tiếp nhận, thu thập thông tin về tình hình tội phạm, kết quả công tác của đơn vị, của cấp dưới một cách đầy đủ, chính xác từ nhiều nguồn thông tin khác nhau, nhất là những thông tin qua các báo cáo công tác, các hội nghị, hội thảo, giao ban (cử các cán bộ làm công tác tham mưu, tổng hợp tham gia, tham dự các cuộc họp, hội nghị, hội thảo, các cuộc giao ban công tác khi có điều kiện).
- Tạo ra cơ chế, điều kiện để đơn vị hoặc bộ phận làm công tác tham mưu, tổng hợp thực hiện việc theo dõi, đôn đốc, tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện Quy chế nói chung và kết quả thực hiện các kế hoạch, chương trình công tác của các đơn vị cùng cấp, cấp dưới để kịp thời tham mưu phục vụ công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo Viện kiểm sát các cấp (Điều 23 của Quy chế).
- Các đơn vị trực thuộc, Viện kiểm sát cấp dưới có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với bộ phận làm công tác tham mưu, tổng hợp trong việc thực hiện các chế độ về thông tin, báo cáo và quản lý công tác trong Ngành. Đặc biệt, lãnh đạo Viện kiểm sát các cấp cần quan tâm, chỉ đạo và đơn vị, bộ phận làm công tác tham mưu, tổng hợp cần phối hợp chặt chẽ với đơn vị, bộ phận làm công tác thống kê cùng cấp để đảm bảo thực hiện tốt chế độ thông tin, báo cáo và quản lý công tác.
5. Cơ sở vật chất, điều kiện làm việc và chế độ chính sách
- Cơ sở vật chất, phương tiện và các điều kiện làm việc khác có ý nghĩa quan trọng góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tham mưu, tổng hợp. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi các yêu cầu phục vụ công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành ngày càng đòi hỏi nhanh hơn, chất lượng cao hơn. Vì vậy, Viện kiểm sát các cấp quan tâm, đảm bảo các điều kiện cần thiết, như các trang thiết bị, phương tiện hiện đại (máy ghi âm, máy scan, máy fax,…), điều kiện công tác khác nhằm đảm bảo việc tiếp nhận, thu thập, nắm và xử lý thông tin, báo cáo và quản lý công tác ở Viện kiểm sát các cấp được thuận lợi, kịp thời, chính xác, đầy đủ, thống nhất và an toàn, bí mật.
Do tính chất, yêu cầu của công tác tham mưu, tổng hợp đòi hỏi phải bảo đảm thông tin, báo cáo đầy đủ, chính xác, kịp thời nên Viện kiểm sát các cấp cần chú trọng khai thác các ứng dụng công nghệ thông tin; tăng cường việc sử dụng hệ thống thư điện tử của Ngành, văn bản điện tử trong công tác thông tin, báo cáo và quản lý (Chỉ thị số 15/CT-TTg ngày 22/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường sử dụng văn bản điện tử trong hoạt động của cơ quan nhà nước).
- Chính sách, chế độ đối với cán bộ có vai trò rất quan trọng trong việc tạo điều kiện vật chất, động lực tinh thần để cán bộ yên tâm, gắn bó và phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ. Vì vậy, lãnh đạo Viện kiểm sát các cấp, các đơn vị cần chú trọng, quan tâm hơn nữa đến chế độ, chính sách đối với những cán bộ làm công tác tham mưu, tổng hợp./.
 
                      VĂN PHÒNG
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
 
 
 
 
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỐI CAO
CỘNG HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
 
         Hà Nội, ngày 28 tháng 8 năm 2012
 
HƯỚNG DẪN TẬP HUẤN
Hệ thống chỉ tiêu cơ bản đánh giá kết quả công tác nghiệp vụ
trong ngành Kiểm sát nhân dân
 
 
Ngày 13/6/2012, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành Quyết định số 297/QĐ-VKSTC và Hướng dẫn số 17/HD-VKSTC về việc ban hành và hướng dẫn thực hiện Hệ thống chỉ tiêu cơ bản đánh giá kết quả công tác nghiệp vụ trong ngành Kiểm sát nhân dân. Đây là kết quả tổng hợp các ý kiến góp ý trong toàn Ngành theo sự chỉ đạo của lãnh đạo VKSND tối cao, giúp tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành và góp phần thực hiện hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nhân dân. 
Để giúp cho các đơn vị trong toàn Ngành nắm được những nội dung, yêu cầu của hệ thống các chỉ tiêu cơ bản đánh giá kết quả công tác nghiệp vụ và biện pháp tổ chức thực hiện, nhằm tạo sự thống nhất về nhận thức và triển khai thực hiện hiệu quả, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TẬP HUẤN HỆ THỐNG CHỈ TIÊU CƠ BẢN ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CÔNG TÁC NGHIỆP VỤ TRONG NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN
- Trong hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ, mỗi ngành đều xây dựng các chỉ tiêu cơ bản, làm cơ sở cho việc tổ chức xây dựng kế hoạch và kiểm tra, đánh giá kết quả trong năm công tác. Ngành Kiểm sát nhân dân trong nhiều năm qua chưa có một hệ thống các chỉ tiêu công tác nghiệp vụ thống nhất ở các cấp và các lĩnh vực công tác, tính đồng bộ của các cấp kiểm sát trong thực hiện các chỉ tiêu nghiệp vụ, do đó làm hạn chế chất lượng công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành.
- Hoạt động kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ là yêu cầu quan trọng của chế độ quản lý công tác trong ngành Kiểm sát nhân dân. Qua tổng kết hàng năm của các đơn vị trong toàn Ngành cho thấy, việc đánh giá thật chính xác những thành tích và tồn tại trong thực hiện các khâu công tác nghiệp vụ của các đơn vị vẫn còn một số hạn chế do chưa có các chỉ tiêu chung, thống nhất để đối chiếu, so sánh, làm căn cứ phân loại, đánh giá kết quả công tác nghiệp vụ trong từng đơn vị cũng như toàn ngành Kiểm sát nhân dân.
- Hệ thống chỉ tiêu cơ bản đánh giá kết quả công tác nghiệp vụ trong ngành Kiểm sát nhân dân được ban hành có nhiều nội dung liên quan đến các lĩnh vực nghiệp vụ kiểm sát, do đó cần có sự quan tâm chỉ đạo, thực hiện của các đồng chí Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp, thủ trưởng các đơn vị trực thuộc để thống nhất về nhận thức và triển khai thực hiện hiệu quả.
II. YÊU CẦU CỦA HỆ THỐNG CHỈ TIÊU CƠ BẢN CÔNG TÁC NGHIỆP VỤ
- Hệ thống các chỉ tiêu nghiệp vụ cơ bản được xây dựng xuất phát từ mục tiêu nâng cao chất lượng thực hiện chức năng, nhiệm vụ; đặc biệt, trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay, yêu cầu nâng cao chất lượng thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát ngày càng bức thiết, công cuộc cải cách tư pháp có đạt được kết quả tốt, vị thế của ngành Kiểm sát nhân dân có được nâng lên xứng tầm với yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của các hoạt động tư pháp, điều cốt lõi chính là chất lượng và việc đặt ra chỉ tiêu phấn đấu chính là nhằm đạt được mục tiêu về chất lượng công tác.
- Việc xây dựng các chỉ tiêu nghiệp vụ cơ bản nhằm phục vụ yêu cầu của lãnh đạo VKSND các cấp trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành. Thông qua kết quả thực hiện các chỉ tiêu này, giúp lãnh đạo Viện đánh giá đúng, đầy đủ kết quả thực hiện, mức độ hoàn thành từng khâu công tác nghiệp vụ của các đơn vị, các phòng, bộ phận mình trực tiếp quản lý. Từ đó, chỉ đạo thực hiện các biện pháp hiệu quả để nâng cao chất lượng công tác. 
- Các chỉ tiêu cơ bản của các khâu công tác nghiệp vụ đưa ra phù hợp với quy định về việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nói chung và từng khâu công tác kiểm sát nói riêng theo Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Quy chế của từng khâu công tác nghiệp vụ và phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành nhằm nâng cao chất lượng công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND và hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo VKSND các cấp.
- Các chỉ tiêu nghiệp vụ cơ bản được xây dựng dựa trên cơ sở khảo sát một cách toàn diện kết quả từng khâu công tác thực tế đã đạt được của các đơn vị, các cấp kiểm sát trong toàn Ngành; trên cơ sở đó, đánh giá chính xác được tình hình, thực trạng, kết quả thực hiện nhiệm vụ để đưa ra các chỉ tiêu sát, đúng với yêu cầu, thực tế đòi hỏi. Các chỉ tiêu này đã được các Vụ nghiệp vụ, các VKSND địa phương nghiên cứu, tham gia đóng góp ý kiến xây dựng, đảm bảo tính thực tiễn và tính khả thi cao.
- Các chỉ tiêu nghiệp vụ cơ bản được xây dựng cho cả 3 cấp kiểm sát. Căn cứ vào tính chất, mức độ phức tạp của việc thực hiện nhiệm vụ ở mỗi cấp kiểm sát, mỗi lĩnh vực trong từng khâu công tác, khối lượng công việc phải giải quyết để xây dựng các chỉ tiêu phù hợp cho các đơn vị, các cấp kiểm sát.
- Các chỉ tiêu nghiệp vụ cơ bản được xây dựng nhằm hoàn thiện và đồng bộ với hệ thống sổ quản lý nghiệp vụ, các báo cáo công tác định kỳ và các báo cáo, biểu mẫu, chỉ tiêu thống kê; tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kiểm tra, đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ.
- Các chỉ tiêu đặt ra để các đơn vị trong Ngành phấn đấu thực hiện, nhằm nâng cao chất lượng công tác của đơn vị. Do đó, trên thực tế một số chỉ tiêu vẫn để xảy ra những hạn chế trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ nhưng các đơn vị phải phấn đấu để hạn chế thấp nhất những sai sót này.
* Về cơ sở định mức trong Hệ thống chỉ tiêu cơ bản đánh giá kết quả công tác nghiệp vụ trong ngành Kiểm sát nhân dân:
- Thứ nhất, định mức các chỉ tiêu được đưa ra, dựa trên cơ sở khảo sát, đánh giá một cách toàn diện kết quả từng khâu công tác thực tế đã đạt được, việc thực hiện các chỉ tiêu đã xây dựng của các đơn vị Viện kiểm sát ở cả 3 cấp những năm gần đây.
- Thứ hai, định mức các chỉ tiêu đưa ra trên cơ sở tổng hợp các ý kiến tham gia góp ý xây dựng của các đơn vị trong toàn Ngành, phù hợp với yêu cầu tính thực tiễn và tính khả thi cao của từng đơn vị, từng cấp kiểm sát (ví dụ, chỉ tiêu về tỷ lệ giải quyết đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm của Viện kiểm sát: Đối với VKSND cấp tỉnh, tỷ lệ giải quyết đạt từ 80% trở lên; Đối với VKSND tối cao, tỷ lệ giải quyết đạt từ 25% trở lên).
- Thứ ba, định mức các chỉ tiêu đưa ra phải phù hợp với quy định của pháp luật và quy chế của các khâu công tác nghiệp vụ (ví dụ, chỉ tiêu về kiểm sát trực tiếp nhà tạm giữ, trại tạm giam: Đối với VKSND cấp huyện tiến hành kiểm sát trực tiếp nhà tạm giữ, VKSND cấp tỉnh tiến hành kiểm sát trực tiếp trại tạm giam, ít nhất 1 lần/ 1 quý - theo Quy chế kiểm sát tạm giữ, tạm giam; đối với Vụ 4 VKSND tối cao tiến hành kiểm sát trực tiếp 4 trại tạm giam thuộc Bộ Công an ít nhất 2 lần/ 1 năm; phối hợp với Viện kiểm sát cấp tỉnh kiểm sát trực tiếp 4 trại tạm giam thuộc Công an cấp tỉnh ít nhất 01 lần/ 1 năm - phù hợp với quy định của Luật thi hành án hình sự).
- Thứ tư, một số trường hợp mặc dù thực tiễn công tác vẫn còn xảy ra, nhưng chỉ tiêu đưa ra định mức lại mang tính tuyệt đối (không xảy ra), nhằm tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát phải đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ đòi hỏi (ví dụ, chỉ tiêu không có bị cáo Tòa án xét xử tuyên không phạm tội; chỉ tiêu kiểm sát việc ra quyết định về thi hành án của Toà án trong thời hạn luật định áp dụng cho VKSND cấp tỉnh, VKSND cấp huyện là đạt 100%...).
- Thứ năm, trong Hệ thống chỉ tiêu, có trường hợp mặc dù quy định của pháp luật cho phép thời hạn giải quyết dài hơn thời hạn chỉ tiêu đưa ra (như: Chỉ tiêu giải quyết án hình sự còn lại của năm trước chuyển sang) hoặc đưa ra các chỉ tiêu về tỷ lệ giải quyết (còn phụ thuộc vào số lượng phát sinh, giải quyết của cơ quan chức năng ở giai đoạn tố tụng trước...); điều này nhằm tăng cường trách nhiệm và công tác phối hợp của Viện kiểm sát nhằm đẩy nhanh tiến độ giải quyết; đồng thời hạn chế được tình trạng án ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội quả tang, rõ ràng, nhưng vẫn để kéo dài, chậm tiến độ hoặc ngâm hồ sơ, để đến hết thời hạn quy định mới kết thúc giải quyết. Ngược lại, có trường hợp, quy định của pháp luật không cho phép, nhưng chỉ tiêu vẫn đưa ra, do thực tiễn công tác chưa đáp ứng kịp (như: Chỉ tiêu về hạn chế vi phạm thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, tỷ lệ cho phép không quá 20%)…     
III. NỘI DUNG CÁC CHỈ TIÊU NGHIỆP VỤ CƠ BẢN
Trên cơ sở đánh giá kết quả thực tiễn công tác nghiệp vụ, yêu cầu nâng cao chất lượng và quản lý, chỉ đạo, điều hành, qua 02 lần góp ý kiến xây dựng của các đơn vị trong toàn Ngành, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành Hệ thống chỉ tiêu cơ bản đánh giá kết quả công tác nghiệp vụ trong ngành Kiểm sát nhân dân, qua đó xác định các tiêu chí đánh giá kết quả công tác nghiệp vụ gồm 10 nhóm thuộc 2 lĩnh vực thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự, công tác điều tra của Viện kiểm sát và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giải quyết các vụ, việc dân sự, hành chính, kinh tế, lao động, trong công tác thi hành án và khiếu nại, tố cáo, với 64 chỉ tiêu cơ bản. Cụ thể như sau:
1. Nhóm chỉ tiêu công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố gồm 03 chỉ tiêu cơ bản
 Công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, mặc dù đã được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự và những năm gần đây, ngành Kiểm sát đã có quan tâm đến công tác này, nhưng còn chưa đáp ứng so với yêu cầu thực tiễn, như: Kết quả công tác vẫn còn nhiều hạn chế, chất lượng, hiệu quả còn chưa cao do các cấp Kiểm sát chưa chủ động thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát đối với hoạt động này, nhiều Viện kiểm sát địa phương chưa nắm được đầy đủ tình hình tố giác, tin báo về tội phạm, tham gia thụ động trong quá trình kiểm sát giải quyết. Yêu cầu đặt ra là phải tăng cường và nâng cao trách nhiệm, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; mục đích nhằm phấn đấu tăng tỷ lệ phát hiện, xử lý tội phạm, đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều được phát hiện, khởi tố, điều tra kịp thời theo quy định của pháp luật. Vì vậy, việc xác định các chỉ tiêu cơ bản của công tác này, dựa trên các tiêu chí về chất lượng, thời hạn, tiến độ giải quyết liên quan đến vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong hoạt động kiểm sát. Các chỉ tiêu nghiệp vụ cơ bản trong công tác này là:
1.1. Chỉ tiêu về tiến độ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
          - Yêu cầu cần đạt được của chỉ tiêu là: Giải quyết xong ít nhất 70% số tố giác, tin báo về tội phạm Cơ quan điều tra đã thụ lý. Chỉ tiêu này được áp dụng cho cả 3 cấp kiểm sát.
          - Phương pháp tính chỉ tiêu là: Số tố giác, tin báo tội phạm đã giải quyết (Quyết định khởi tố, không khởi tố vụ án hình sự) trên tổng số tố giác, tin báo tội phạm Cơ quan điều tra đã thụ lý phải giải quyết (bao gồm cả số chưa giải quyết xong của kỳ trước chuyển sang). Tỷ lệ này không tính số đã chuyển đến cơ quan khác để giải quyết theo thẩm quyền.
          1.2. Chỉ tiêu hạn chế vi phạm thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
- Yêu cầu đạt được của chỉ tiêu này: Số tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố quá hạn giải quyết không quá 20% số tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố chưa giải quyết. Tỷ lệ này áp dụng cho cả 3 cấp kiểm sát.
          - Phương pháp tính chỉ tiêu: Số tố giác, tin báo về tội phạm quá hạn giải quyết trên số tố giác, tin báo về tội phạm chưa giải quyết trong kỳ (số tố giác, tin báo tội phạm quá hạn giải quyết để tính tỷ lệ này phải nằm trong số tố giác, tin báo tội phạm chưa giải quyết trong kỳ).
           1.3. Chỉ tiêu kiểm sát trực tiếp việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra
- Chỉ tiêu này đặt ra cho cả 3 cấp kiểm sát là: 1 năm ít nhất tiến hành kiểm sát trực tiếp 1 lần đối với Cơ quan điều tra cùng cấp.
- Phương pháp tính chỉ tiêu: Các đơn vị có quyết định, kế hoạch kiểm sát trực tiếp Cơ quan điều tra và đã ban hành văn bản kết luận kiểm sát. Riêng VKSND tối cao, giao cho Vụ 1A có trách nhiệm chủ trì phối hợp tổ chức thực hiện.
* Khi thực hiện nhóm chỉ tiêu về công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, cần lưu ý một số vấn đề sau đây:
- Viện kiểm sát nhân dân các cấp cần có nhận thức đúng về phạm vi quyền hạn của Viện kiểm sát trong công tác “Kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố” là bắt đầu từ khi Cơ quan điều tra tiếp nhận tố giác, tin báo tội phạm đến việc thụ lý, phân loại, kết luận, phân công Điều tra viên, tiến hành xác minh, kết quả xác minh và quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Tránh nhận thức sai lầm của một số đơn vị là chỉ khi có quyết định giải quyết của Cơ quan điều tra thì Viện kiểm sát mới tiến hành kiểm sát hoạt động này.
- Các chỉ tiêu về tiến độ, thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố được thực hiện theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (từ Điều 101 đến Điều 109), điều này có nghĩa: Chỉ tính số tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố là số đã giải quyết khi thuộc hai trường hợp quyết định việc khởi tố (Điều 104) và quyết định không khởi tố vụ án hình sự (Điều 108). Hiện nay các loại báo cáo công tác về nội dung liên quan đến cách tính này là đã đưa cả hình thức giải quyết bằng biện pháp khác vào số đã giải quyết, khi đánh giá chất lượng công tác này, nếu số xử lý khác chiếm tỷ lệ cao trong số đã giải quyết sẽ cho thấy chất lượng công tác kiểm sát việc tiếp nhận và phân loại, xử lý của đơn vị còn hạn chế. Do đó, dù đơn vị đạt tỷ lệ giải quyết cao, nhưng chất lượng kiểm sát cần được đánh giá là chưa đạt yêu cầu.
2. Nhóm các chỉ tiêu công tác kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam và chế độ tạm giữ, tạm giam gồm 04 chỉ tiêu cơ bản
Đây là những hoạt động liên quan trực tiếp đến việc đảm bảo quyền tự do dân chủ của công dân; việc quyết định bắt, tạm giữ, tạm giam đối với một người đồng nghĩa với việc hạn chế một số quyền công dân của họ. Vì vậy, đòi hỏi các cơ quan thực thi pháp luật trong thực hiện nhiệm vụ phải tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật, tránh để xảy ra oan sai. Những năm qua, công tác quản lý việc tạm giữ, tạm giam còn để xảy ra nhiều vi phạm trong việc thực hiện các chế độ, chính sách, điều kiện an toàn, vệ sinh đối với người bị giam, giữ... đặc biệt là việc để quá hạn tạm giữ, tạm giam. Điều này đặt ra cho ngành Kiểm sát yêu cầu nhiệm vụ là cần phải tăng cường hơn nữa công tác kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam và việc thực hiện các chế độ về giam, giữ; không để xảy ra trường hợp vi phạm thời hạn tạm giữ, tạm giam; phối hợp chặt chẽ với đơn vị thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự để phát hiện và kiến nghị các biện pháp khắc phục, hạn chế các vi phạm trong công tác quản lý việc giam, giữ; thường xuyên rút kinh nghiệm về nghiệp vụ để nâng cao chất lượng công tác kiểm sát lĩnh vực này. Việc xây dựng các chỉ tiêu cơ bản trong công tác kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam và chế độ giam, giữ cũng xuất phát từ những yêu cầu trên. Các chỉ tiêu đó là:
2.1. Chỉ tiêu không có trường hợp bị tạm giữ, tạm giam vi phạm thời hạn luật định
          - Chỉ tiêu này đặt ra cho cả 3 cấp kiểm sát cần phải đạt là 100%.
          - Phương pháp tính chỉ tiêu: Không có trường hợp nào bị giam, giữ quá thời hạn luật quy định mà không có lệnh hoặc quyết định phê chuẩn của cơ quan có thẩm quyền. Các trường hợp vi phạm của Cơ quan điều tra hoặc Tòa án, Viện kiểm sát phải có văn bản kiến nghị và biện pháp xử lý.
          2.2. Chỉ tiêu về kiểm sát trực tiếp nhà tạm giữ, trại tạm giam
          - Chỉ tiêu đặt ra cho từng cấp kiểm sát như sau:
          + Đối với VKSND cấp huyện: Tiến hành kiểm sát trực tiếp nhà tạm giữ ít nhất 1 lần/ 1 quý.
          + Đối với VKSND cấp tỉnh: Tiến hành kiểm sát trực tiếp trại tạm giam ít nhất 1 lần/ 1 quý.
          + Đối với Vụ 4 VKSND tối cao tiến hành kiểm sát trực tiếp 4 trại tạm giam thuộc Bộ Công an ít nhất 2 lần/ 1 năm; phối hợp với Viện kiểm sát cấp tỉnh kiểm sát trực tiếp 4 trại tạm giam thuộc Công an cấp tỉnh ít nhất 01 lần/ 1 năm.
- Phương pháp tính chỉ tiêu: Có quyết định, kế hoạch kiểm sát trực tiếp và đã ban hành văn bản kết luận kiểm sát.
          2.3. Chỉ tiêu về ban hành kiến nghị yêu cầu khắc phục tình trạng vi phạm trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam và thực hiện chế độ giam giữ; kết quả tiếp thu, sửa chữa
          - Chỉ tiêu này áp dụng cho cả 3 cấp kiểm sát là: ban hành ít nhất 1 kiến nghị/ 1 năm và được cơ quan Công an chấp nhận, tiếp thu.
          - Phương pháp tính chỉ tiêu: Kiến nghị nêu trên được hiểu là văn bản kiến nghị những vi phạm mang tính phổ biến trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam và thực hiện chế độ giam giữ (không tính các kiến nghị trong các Kết luận kiểm sát trực tiếp nhà tạm giữ, trại tạm giam).
          2.4. Chỉ tiêu về ban hành thông báo rút kinh nghiệm nghiệp vụ trong hoạt động kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam và thực hiện chế độ giam giữ
          - Chỉ tiêu cụ thể là:
+ Đối với VKSND cấp tỉnh: 1 năm có ít nhất 4 thông báo rút kinh nghiệm nghiệp vụ đối với VKSND cấp huyện.
+ Đối với VKSND tối cao: 1 năm có ít nhất 4 thông báo rút kinh nghiệm nghiệp vụ đối với VKSND cấp tỉnh.
- Phương pháp tính chỉ tiêu: Thông báo rút kinh nghiệm bằng văn bản về những vấn đề mang tính phổ biến, chỉ đạo chung đối với các đơn vị Viện kiểm sát cấp dưới.
* Khi thực hiện nhóm chỉ tiêu về công tác kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam và chế độ tạm giữ, tạm giam cần lưu ý một số vấn đề sau đây:
- Các trường hợp tạm giữ, tạm giam quá hạn do Cơ quan điều tra hoặc việc tạm giam do Viện kiểm sát ra quyết định thì trách nhiệm trước hết thuộc về Viện kiểm sát; nếu là lệnh, quyết định do Tòa án thực hiện thì Viện kiểm sát phải có kiến nghị yêu cầu khắc phục kịp thời (thì không tính vào chỉ tiêu của đơn vị).
- Chỉ tiêu kiểm sát trực tiếp thực hiện theo Quy chế kiểm sát tạm giữ, tạm giam.
3. Nhóm chỉ tiêu công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự gồm 08 chỉ tiêu cơ bản
Đây là những chỉ tiêu nhằm thực hiện tốt chủ trương “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra” và nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát hoạt động tư pháp trong giải quyết vụ án hình sự, như: Tăng tỷ lệ bắt, giữ chuyển khởi tố và tiến độ giải quyết án; không để xảy ra án đình chỉ điều tra do bị can không phạm tội; hạn chế đến mức thấp nhất tỷ lệ án trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng; tích cực xác định và giải quyết các vụ án trọng điểm... nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; đảm bảo việc khởi tố, áp dụng các biện pháp ngăn chặn, việc điều tra và xử lý của Cơ quan điều tra có căn cứ, đúng pháp luật. Bám sát các yêu cầu, biện pháp thực hiện công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, các chỉ tiêu cơ bản đưa ra trong công tác này đảm bảo một số tiêu chí về chất lượng, hiệu quả, tiến độ, về tổng hợp vi phạm và tăng cường rút kinh nghiệm nghiệp vụ cho cơ sở, đó là:
3.1. Chỉ tiêu về tỷ lệ số người bị bắt, tạm giữ về hình sự chuyển khởi tố
          - Chỉ tiêu này đặt ra cho cả 3 cấp kiểm sát cần phải đạt là: từ 95% trở lên.
          - Phương pháp tính chỉ tiêu: Số người bị bắt, tạm giữ chuyển xử lý hình sự trên tổng số người bị bắt, tạm giữ đã phân loại giải quyết; số không xử lý hình sự là dưới 5% (tỷ lệ này không bao gồm số bắt truy nã và các trường hợp người bị hại rút đơn hoặc không có đơn trong các vụ án khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, hoặc thực hiện chính sách hình sự một số vụ án về an ninh quốc gia hoặc người nước ngoài phạm tội).      
3.2. Chỉ tiêu về việc xử lý án còn lại của năm trước chuyển sang
- Chỉ tiêu xử lýán còn lại của năm trướcchậm nhất là hết quý II đối với Viện kiểm sát cấp huyện, Viện kiểm sát cấp tỉnh và quý III đối với VKSND tối cao.
- Phương pháp tính chỉ tiêu: Số án còn lại của năm trướcnêu ở đây bao gồm số án ở Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát từ năm kế hoạch trước chuyển sang và chưa có quyết định xử lý của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, trừ số án tạm đình chỉ điều tra. Số án còn lại của năm trước được coi là đã giải quyết ở Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát là các trường hợp cụ thể sau:
          + Ở Cơ quan điều tra gồm: Đã có kết luận điều tra, chuyển hồ sơ sang Viện kiểm sát đề nghị truy tố hoặc đình chỉ điều tra, án có quyết định tạm đình chỉ điều tra, án có quyết định chuyển vụ án cho cơ quan khác để giải quyết theo thẩm quyền.
          + Ở Viện kiểm sát gồm: Đã chuyển hồ sơ truy tố sang Toà án, có các quyết định đình chỉ vụ án, tạm đình chỉ vụ án, trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra yêu cầu điều tra bổ sung, quyết định chuyển vụ án cho cơ quan khác để giải quyết theo thẩm quyền.
          3.3. Chỉ tiêu về tiến độ giải quyết án trong giai đoạn thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
          - Chỉ tiêu về tiến độ giải quyết án trong giai đoạn thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra áp dụng cho Viện kiểm sát các cấp từ 80% trở lên.
          - Phương pháp tính chỉ tiêu: Tính tỷ lệ số án Cơ quan điều tra đã xử lý, giải quyết (kết thúc điều tra, chuyển hồ sơ sang Viện kiểm sát đề nghị truy tố hoặc đình chỉ điều tra hoặc có quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án) trên tổng số vụ án Cơ quan điều tra thụ lý giải quyết trong kỳ (gồm cả số án còn lại của kỳ trước chuyển sang). Tỷ lệ này không bao gồm số vụ án chuyển cho cơ quan khác giải quyết theo thẩm quyền.
3.4. Chỉ tiêu về án đình chỉ điều tra do bị can không phạm tội
- Chỉ tiêu đặt ra cho cả 3 cấp kiểm sát là phấn đấu 100% không có án đình chỉ điều tra do bị can không phạm tội.
- Phương pháp tính chỉ tiêu: Bị can được đình chỉ vì hành vi của họ không đủ yếu tố cấu thành tội phạm hoặc hết thời hạn điều tra nhưng không đủ chứng cứ chứng minh bị can đã thực hiện hành vi phạm tội hoặc họ bị khởi tố nhưng không có sự việc phạm tội xảy ra... Việc xác định các trường hợp đình chỉ điều tra do bị can không phạm tội trong chỉ tiêu này là những trường hợp do có lỗi chủ quan của Kiểm sát viên khi thực hiện chức trách, nhiệm vụ kiểm sát.
3.5. Chỉ tiêu về tỷ lệ án trả hồ sơ để điều tra bổ sung
- Chỉ tiêu áp dụng cho cả 3 cấp kiểm sát (Bao gồm cả án Viện kiểm sát trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra và Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung) như sau: Tổng tỷ lệ trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng không quá 6%.
- Phương pháp tính chỉ tiêu thực hiện theo Thông tư liên tịch số 01/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày 27/8/2010, hướng dẫn việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, cụ thể: Tỷ lệ này được tính bằng số vụ án hình sự do Viện kiểm sát đã quyết định trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung có căn cứ trên tổng số vụ Cơ quan điều tra đã có kết luận điều tra chuyển hồ sơ đến Viện kiểm sát đề nghị truy tố (bao gồm cả số vụ kết thúc điều tra cũ chưa giải quyết và số vụ mới) cộng với số vụ án hình sự do Toà án đã quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để yêu cầu điều tra bổ sung có căn cứ trên tổng số vụ Viện kiểm sát đã truy tố và chuyển hồ sơ đến Toà án để xét xử (bao gồm cả số vụ truy tố cũ chưa giải quyết và số vụ truy tố mới).
Khi tính chỉ tiêu này cần lưu ý, đối với những vụ án Toà án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát, sau đó Viện kiểm sát trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung (trong kỳ) thì chỉ tính một lần là trường hợp án Toà án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung, chứ không tính thêm là trường hợp án Viện kiểm sát trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung.
Số án trả điều tra bổ sung để tính tỷ lệ là số án Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải chấp nhận điều tra bổ sung toàn bộ hay một phần mà có lỗi của Viện kiểm sát đã không có yêu cầu điều tra và biện pháp kiểm sát để làm rõ.
          3.6. Chỉ tiêu về tiến độ giải quyết án của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố
          - Chỉ tiêu này đặt ra cho cả 3 cấp kiểm sát là từ 95% trở lên.
          - Phương pháp tính chỉ tiêu: Đó là tỷ lệ số án Viện kiểm sát đã có quyết định xử lý (có cáo trạng, chuyển hồ sơ truy tố sang Toà án, có quyết định đình chỉ vụ án, trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra yêu cầu điều tra bổ sung, quyết định tạm đình chỉ vụ án) trên tổng số vụ án Viện kiểm sát thụ lý giải quyết trong kỳ (gồm cả số án tồn của kỳ trước chuyển sang). Tỷ lệ này không bao gồm số vụ án chuyển cho cơ quan khác giải quyết theo thẩm quyền.
          3.7. Chỉ tiêu về xác định và giải quyết án trọng điểm
          - Tỷ lệ án trọng điểm được xác định như sau: Đối với VKSND cấp huyện và các đơn vị thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự cấp tỉnh: Tỷ lệ xác định và giải quyết án trọng điểm cần đạt ít nhất là 5% trên tổng số án thụ lý; các đơn vị có số lượng án dưới 100 vụ/ 1 năm, số án trọng điểm từ 1 đến 3 vụ.
          - Phương pháp tính chỉ tiêu: Chỉ tiêu này được xác định bằng số vụ án trọng điểm trên tổng số vụ án đã thụ lý của Cơ quan điều tra. Án trọng điểm được xác định bằng báo cáo đăng ký án điểm có xác nhận của ba cơ quan tiến hành tố tụng.
          3.8. Chỉ tiêu về kiến nghị yêu cầu khắc phục vi phạm của Cơ quan điều tra trong hoạt động điều tra
          - Yêu cầu: Chỉ tiêu áp dụng đối với VKSND cấp huyện; các đơn vị thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự Viện kiểm sát cấp tỉnh; các đơn vị thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra thuộc VKSND tối cao. Cụ thể, chỉ tiêu cần đạt là mỗi đơn vị 1 năm ít nhất 1 bản kiến nghị và được Cơ quan điều tra chấp nhận, tiếp thu.
          - Phương pháp tính chỉ tiêu: Kiến nghị nêu trên là văn bản kiến nghị những vi phạm mang tính phổ biến trong hoạt động điều tra.
          3.9. Chỉ tiêu về ban hành thông báo rút kinh nghiệm nghiệp vụ trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự
          - Chỉ tiêu cụ thể là:
+ Đối với VKSND cấp tỉnh: Chỉ tiêu cần đạt là mỗi đơn vị thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra 1 năm có ít nhất 4 thông báo rút kinh nghiệm nghiệp vụ đối với VKSND cấp huyện.
+ Đối với các đơn vị thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra thuộc VKSND tối cao: Chỉ tiêu là 1 năm có ít nhất 4 thông báo rút kinh nghiệm nghiệp vụ đối với VKSND cấp tỉnh.
- Phương pháp tính chỉ tiêu: Thông báo rút kinh nghiệm được ban hành bằng văn bản, về những vấn đề mang tính phổ biến, chỉ đạo chung đối với các đơn vị cấp dưới.
* Khi thực hiện nhóm chỉ tiêu về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, cần lưu ý một số vấn đề sau đây:
- Chỉ tiêu về việc xử lý án còn lại của năm trước chuyển sang:
Về chỉ tiêu này, một số đơn vị có ý kiến tham gia, nên đổi thành “Không để án tồn quá thời hạn giải quyết theo luật định” hoặc “Tất cả các vụ án hình sự đều phải được giải quyết trong thời hạn luật định”. Tuy nhiên, lý do của việc đưa ra chỉ tiêu này là nhằm tăng cường vai trò, trách nhiệm phối hợp của Viện kiểm sát, đẩy nhanh tiến độ giải quyết; đồng thời, hạn chế được tình trạng án ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội quả tang, rõ ràng, nhưng vẫn để kéo dài, chậm tiến độ để đến hết thời hạn quy định mới kết thúc giải quyết.
- Các chỉ tiêu về tiến độ giải quyết án (trong giai đoạn thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra và giai đoạn truy tố): Tính cả vụ án tạm đình chỉ vào tiến độ giải quyết án, vì tạm đình chỉ là việc tạm dừng hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật, tuy nhiên đã được xử lý trong thời gian Luật định. Nếu đưa án tạm đình chỉ là án chưa giải quyết để tính chỉ tiêu này, thì cũng đồng nghĩa với việc đưa số án tạm đình chỉ vào số chưa giải quyết của các kỳ trước chuyển sang để cộng với số mới thành tổng thụ lý, điều này là không khả thi và không còn ý nghĩa để đánh giá tiến độ giải quyết án vì đã hết thời hạn điều tra và cơ quan tiến hành tố tụng phải tạm đình chỉ không thể kết thúc điều tra vụ án.
Việc đưa án tạm đình chỉ điều tra vào tỷ lệ đã xử lý, giải quyết còn nhằm để tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát trong công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm: thực trạng ở một số địa phương ngại khởi tố vụ án để điều tra nếu không xác định rõ bị can vì phải tạm đình chỉ điều tra dẫn đến trách nhiệm trong hoàn thành chỉ tiêu “phá án”. Do đó, thường để tin báo có dấu hiệu tội phạm kéo dài, quá hạn không khởi tố. Nếu tính án tạm đình chỉ vào tỷ lệ xử lý sẽ tăng cường trách nhiệm yêu cầu khởi tố của Viện kiểm sát trong giải quyết tin báo.
Một số đơn vị có ý kiến tham gia, nên đổi thành chỉ tiêu “Đảm bảo 100% số vụ án được giải quyết trong thời hạn luật định” hoặc chỉ tiêu “Tỷ lệ số vụ án phải gia hạn” hay “Số vụ án để quá thời hạn luật định”. Quy định như vậy thì không còn ý nghĩa của chỉ tiêu “nâng cao tiến độ giải quyết án nữa” và vấn đề này đã được phân tích ở trên - phần chỉ tiêu về việc xử lý án còn lại của năm trước chuyển sang.
- Chỉ tiêu về tỷ lệ án trả hồ sơ để điều tra bổ sung:
Một số ý kiến tham gia nên tách riêng án Toà trả hồ sơ điều tra bổ sung và án Viện kiểm sát trả hồ sơ điều tra bổ sung, việc này là cần thiết khi phân tích về trách nhiệm trả hồ sơ trong từng giai đoạn tố tụng. Tuy nhiên, dù thuộc trường hợp Toà án trả hồ sơ điều tra bổ sung hay Viện kiểm sát trả hồ sơ điều tra bổ sung thì cũng đều có trách nhiệm của Viện kiểm sát, do đó, để thuận lợi cho việc xác định mức độ hoàn thành chỉ tiêu, cần thiết phải tổng hợp thành chỉ tiêu chung.
Một số ý kiến cho rằng, nên quy định về mức chỉ tiêu theo cấp kiểm sát (quy định các mức khác nhau cho VKSND tối cao, VKSND cấp tỉnh và VKSND cấp huyện), vì án thụ lý ở các cấp kiểm sát - mức độ nghiệm trọng, tính chất phức tạp, hậu quả thiệt hại… khác nhau. Về vấn đề này, chỉ tiêu án trả hồ sơ để điều tra bổ sung là chỉ tiêu nhằm tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra và giai đoạn truy tố, nhằm khắc phục, hạn chế tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng; pháp luật quy định về thẩm quyền giải quyết án hình sự cho các cấp căn cứ theo tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm... nhưng cũng đồng thời quy định các điều kiện đảm bảo xử lý, giải quyết đối với tội phạm đó (thời hạn giải quyết, chức danh pháp lý...) nên việc đưa ra mức chung đối với chỉ tiêu này là phù hợp; hơn nữa, việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung thuộc trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó có Viện kiểm sát (chỉ tiêu cũng nêu điều kiện “có lỗi của Viện kiểm sát”).
- Chỉ tiêu về xác định và giải quyết án trọng điểm: án trọng điểm để tính vào chỉ tiêu này là những vụ án trọng điểm được các cơ quan tiến hành tố tụng thống nhất xác định và giải quyết (khởi tố, truy tố, xét xử) trong thời điểm tính số liệu. Như thế mới đảm bảo tính thời sự và kịp thời, có tác dụng răn đe, tuyên truyền, giáo dục pháp luật, đáp ứng phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương.
4. Nhóm chỉ tiêu công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự gồm 08 chỉ tiêu cơ bản
Một trong những yêu cầu của cải cách tư pháp là “nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa”, đồng thời nâng cao trách nhiệm của Viện kiểm sát trong kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án nhằm đảm bảo bản án được tuyên có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Thực hiện theo yêu cầu đó, trong những năm qua, VKSND tối cao, trong Chỉ thị công tác, luôn nhấn mạnh vấn đề này, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm của công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự đã chỉ đạo Viện kiểm sát các cấp đề ra các biện pháp tăng cường trách nhiệm của Kiểm sát viên; phối hợp với Tòa án tổ chức tốt các phiên tòa rút kinh nghiệm để bồi dưỡng, nâng cao hơn nữa kỹ năng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa; kiểm sát chặt chẽ các bản án, quyết định, các hoạt động tư pháp của Tòa án nhằm phát hiện vi phạm và kịp thời ban hành kháng nghị, kiến nghị, nâng cao số lượng, chất lượng kháng nghị; không để xảy ra án bị hủy có trách nhiệm của Viện kiểm sát và án Tòa tuyên bị cáo không phạm tội. Trên cơ sở các yêu cầu về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự nêu trên, các chỉ tiêu cơ bản là:           
4.1. Chỉ tiêu về án sơ thẩm, phúc thẩm có kháng cáo, kháng nghị bị Toà cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm xét xử tuyên huỷ để điều tra, xét xử lại có trách nhiệm của Viện kiểm sát trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử
- Chỉ tiêu đưa ra cho Viện kiểm sát cấp huyện, Viện kiểm sát cấp tỉnh và các Viện Phúc thẩm 1,2,3 là phấn đấu không có án huỷ có liên quan đến trách nhiệm của Viện kiểm sát (án huỷ = 0%). 
- Phương pháp tính chỉ tiêu: Các vụ án bị Toà án cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm xét xử tuyên huỷ có trách nhiệm của Viện kiểm sáttrong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử vụ án (không tính chỉ tiêu đối với vụ án Viện kiểm sát cấp bị huỷ án đã có quyết định kháng nghị hoặc đã báo cáo đề nghị kháng nghị nhưng Viện kiểm sát cấp trên không kháng nghị).
4.2. Chỉ tiêu không có bị cáo Tòa án xét xử tuyên không phạm tội
- Chỉ tiêu này áp dụng cho cả 3 cấp kiểm sát, cụ thể: Số bị cáo Toà án xét xử tuyên không phạm tội là 0%.
- Phương pháp tính chỉ tiêu: Các trường hợp Toà xét xử tuyên bị cáo không phạm tội nêu trong chỉ tiêu này gồm: Trường hợp Toà sơ thẩm tuyên bị cáo không phạm tội và không có kháng cáo, kháng nghị; trường hợp Toà sơ thẩm tuyên bị cáo không phạm tội, có kháng cáo, kháng nghị nhưng kết quả xét xử ở các cấp tiếp theo không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị đó và vẫn tuyên bị cáo không phạm tội; trường hợp Toà phúc thẩm tuyên bị cáo không phạm tội (cấp sơ thẩm tuyên bị cáo có tội) và không có kháng nghị; trường hợp Toà phúc thẩm tuyên bị cáo không phạm tội (cấp sơ thẩm tuyên bị cáo có tội), có kháng nghị nhưng kết quả xét xử ở các cấp tiếp theo không chấp nhận kháng nghị đó và vẫn tuyên bị cáo không phạm tội.
4.3. Chỉ tiêu về số lượng kháng nghị của Viện kiểm sát
* Số lượng kháng nghị phúc thẩm ngang cấp:
- Chỉ tiêu này áp dụng cho Viện kiểm sát cấp tỉnh và Viện kiểm sát cấp huyện, tỷ lệ kháng nghị phúc thẩm ngang cấpcần đạt ít nhất là 15% trên số án sơ thẩm bị cấp phúc thẩm sửa, huỷ.
- Phương pháp tính: Số kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát cấp sơ thẩm so với số bản án, quyết định bị Tòa cấp phúc thẩm xét xử tuyên sửa hoặc hủy trong thời điểm báo cáo; những bản án, quyết định bị sửa, hủy ở đây là những bản án, quyết định đã bị cấp phúc thẩm tuyên sửa hoặc huỷ và đình chỉ vụ án hoặc huỷ để điều tra hoặc xét xử lại theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (không bao gồm các trường hợp bản án, quyết định bị huỷ và đình chỉ vụ án do “tội phạm đã được đại xá” hoặc “người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị chết”).
* Số lượng kháng nghị của Viện kiểm sát cấp trên:
- Chỉ tiêu áp dụng:
+ Viện kiểm sát cấp tỉnh kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm chiếm ít nhất 5% so với tổng số các vụ án bị Toà án nhân dân tỉnh (phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm) sửa hoặc huỷ án.
+ Viện Phúc thẩm 1, 2, 3 kháng nghị phúc thẩm chiếm ít nhất 5% so với tổng số các vụ án bị Toà án nhân dân tối cao xét xử phúc thẩm sửa án hoặc huỷ án.
- Phương pháp tính: Số kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của Viện kiểm sát cấp trên so với số bản án, quyết định sơ thẩm, phúc thẩm bị sửa, hoặc huỷ để điều tra hoặc xét xử lại, hoặc huỷ và đình chỉ vụ án (không bao gồm các trường hợp bản án, quyết định bị huỷ do “tội phạm đã được đại xá” hoặc “người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị chết” hoặc “có những tình tiết mới được phát hiện”).  
4.4. Chỉ tiêu về chất lượng kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát
- Chỉ tiêu này áp dụng như sau:
+ Kháng nghị ngang cấp, áp dụng cho Viện kiểm sát cấp tỉnh và Viện kiểm sát cấp huyện: Số bị cáo Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm ngang cấp được Viện kiểm sát cấp phúc thẩm bảo vệ kháng nghị trên số bị cáo Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm ngang cấp. Chỉ tiêu cần đạt là từ 85% trở lên.
+ Số bị cáo Viện kiểm sát bảo vệ kháng nghị phúc thẩm được Tòa án xét xử chấp nhận trên số bị cáo Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm đã xét xử. Chỉ tiêu này áp dụng cho Viện kiểm sát cấp tỉnh và các Viện Phúc thẩm 1,2,3, mức cần đạt là từ 70% trở lên.
- Phương pháp tính chỉ tiêu:
+ Về kháng nghị ngang cấp được Viện kiểm sát bảo vệ: Tính tỷ lệ số bị cáo Viện kiểm sát cấp sơ thẩm (Viện kiểm sát cấp tỉnh hoặc cấp huyện) kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết định của Tòa án cùng cấp và được Viện kiểm sát cấp phúc thẩm bảo vệ kháng nghị trên số bị cáo Viện kiểm sát cấp sơ thẩm kháng nghị phúc thẩm đối với bản án, quyết định của Tòa án cùng cấp đó.
+ Về kháng nghị Viện kiểm sát bảo vệ được Tòa án xét xử chấp nhận: Tính tỷ lệ số bị cáo có kháng nghị phúc thẩm (Viện kiểm sát cấp tỉnh hoặc các Viện Phúc thẩm 1,2,3) được Viện kiểm sát cấp phúc thẩm bảo vệ và Tòa án xét xử chấp nhận trên số bị cáo Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm đã được Tòa án xét xử.
4.5. Chỉ tiêu về chất lượng kháng nghị giám đốc thẩm của Viện kiểm sát
- Chỉ tiêu này áp dụng cho VKSND tối cao và VKSND cấp tỉnh, bao gồm:
+ Số bị cáo có kháng nghị của Viện kiểm sát được Toà án xét xử chấp nhận trên số bị cáo Viện kiểm sát đã bảo vệ kháng nghị. Chỉ tiêu cần đạt là từ 85% trở lên.
+ Số bị cáo có kháng nghị của Viện kiểm sát bị rút (kể cả rút tại Toà) và số bị cáo Tòa án không chấp nhận kháng nghị trên tổng số bị cáo Viện kiểm sát kháng nghị. Chỉ tiêu không quá 20%.
- Phương pháp tính chỉ tiêu:
+ Tính số bị cáo Tòa án chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát trên tổng số bị cáo Viện kiểm sát bảo vệ kháng nghị đã được Toà án xét xử.
+ Số bị cáo Viện kiểm sát rút kháng nghị (kể cả rút tại Toà) và số bị cáo Tòa án không chấp nhận kháng nghị trên số bị cáo Viện kiểm sát kháng nghị.
4.6. Chỉ tiêu phối hợp tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm
- Mỗi Kiểm sát viên làm công tác kiểm sát án hình sự Viện kiểm sát cấp huyện và các đơn vị thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử án hình sự Viện kiểm sát cấp tỉnh 1 năm ít nhất đăng ký tham gia xét xử 1 phiên toà để rút kinh nghiệm. 
- Phương pháp tính chỉ tiêu: Những phiên tòa xét xử này được tổ chức cho cán bộ, Kiểm sát viên tham dự để rút kinh nghiệm, học tập kỹ năng; báo cáo Viện kiểm sát cấp trên để theo dõi.
4.7. Chỉ tiêu về ban hành kiến nghị yêu cầu khắc phục vi phạm của Toà án trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự
- Yêu cầu: Chỉ tiêu áp dụng đối với VKSND cấp huyện; các đơn vị thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử án hình sự VKSND cấp tỉnh; các đơn vị Vụ 3, Viện Phúc thẩm 1, 2, 3 VKSND tối cao. Cụ thể, chỉ tiêu cần đạt là mỗi đơn vị 1 năm có ít nhất 1 bản kiến nghị và được cơ quan Toà án chấp nhận, tiếp thu.
- Phương pháp tính chỉ tiêu: Đó là những kiến nghị bằng văn bản, tổng hợp những vi phạm mang tính phổ biến trong hoạt động xét xử của cơ quan Toà án.
4.8. Chỉ tiêu về ban hành thông báo rút kinh nghiệm nghiệp vụ trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự
- Chỉ tiêu cụ thể:
+ Đối với VKSND cấp tỉnh: Mỗi đơn vị thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử án hình sự 1 năm có ít nhất 4 thông báo rút kinh nghiệm nghiệp vụ đối với VKSND cấp huyện (1 thông báo/ 1 quý).
+ Đối với Vụ 3, Viện Phúc thẩm 1, 2, 3 VKSND tối cao: Chỉ tiêu cần đạt là mỗi đơn vị 1 năm có ít nhất 4 thông báo rút kinh nghiệm nghiệp vụ đối với VKSND cấp tỉnh (1 thông báo/ 1 quý).
- Phương pháp tính chỉ tiêu: Thông báo rút kinh nghiệm được ban hành bằng văn bản, về những vấn đề mang tính phổ biến, chỉ đạo chung đối với các đơn vị cấp dưới.
* Khi thực hiện nhóm chỉ tiêu về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, cần lưu ý ở chỉ tiêu về số lượng kháng nghị của viện kiểm sát:Trong chỉ tiêu này, số kháng nghị của Viện kiểm sát (ngang cấp và cấp trên) và số bản án, quyết định bị sửa, hủy đều phải “nằm trong thời điểm báo cáo”, không phụ thuộc vào vụ án bị Viện kiểm sát kháng nghị hoặc Tòa án xét xử tuyên sửa, hủy được thụ lý, giải quyết ở kỳ trước hay trong kỳ báo cáo và Vụ án bị Tòa án xét xử tuyên sửa, hủy có thể không nằm trong số vụ án bị Viện kiểm sát kháng nghị để tính tỷ lệ trong chỉ tiêu này.
5. Nhóm chỉ tiêu về công tác điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát quân sự Trung ương gồm 10 chỉ tiêu cơ bản
 Một số nhiệm vụ trọng tâm cần đạt được đối với Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát trong giai đoạn hiện nay là: Đề ra nhiều biện pháp nhằm thực hiện tốt việc tiếp nhận, thu thập, quản lý, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm; nâng cao số lượng, chất lượng khởi tố, điều tra các vụ án thuộc thẩm quyền; đảm bảo hoạt động điều tra trong thời hạn luật định, đồng thời đẩy nhanh tiến độ điều tra, giải quyết án; tích cực phát hiện, tổng hợp vi phạm, thiếu sót trong hoạt động tư pháp và ban hành kiến nghị yêu cầu các cơ quan tư pháp khắc phục vi phạm, tăng cường các biện pháp phòng ngừa vi phạm, tội phạm, góp phần chấn chỉnh việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động tư pháp. Các chỉ tiêu cơ bản của công tác này, bao gồm:
5.1. Chỉ tiêu về tiến độ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
- Yêu cầu cần đạt được của chỉ tiêu là: Giải quyết xong ít nhất 70% số tố giác, tin báo về tội phạm Cơ quan điều tra đã thụ lý. 
          - Phương pháp tính chỉ tiêu là: Số tố giác, tin báo tội phạm Cơ quan điều tra đã giải quyết (Quyết định khởi tố, không khởi tố vụ án hình sự) trên tổng số tố giác, tin báo tội phạm Cơ quan điều tra đã thụ lý phải giải quyết (bao gồm cả số chưa giải quyết xong của kỳ trước chuyển sang). Tỷ lệ này không tính số đã chuyển đến cơ quan khác để giải quyết theo thẩm quyền.
5.2. Chỉ tiêu hạn chế vi phạm thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
- Yêu cầu đạt được của chỉ tiêu này: Số tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố quá hạn giải quyết không quá 20% số tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố chưa giải quyết.
          - Phương pháp tính chỉ tiêu: Số tố giác, tin báo về tội phạm quá hạn giải quyết trên số tố giác, tin báo về tội phạm chưa giải quyết trong kỳ (số tố giác, tin báo tội phạm quá hạn giải quyết để tính tỷ lệ này phải nằm trong số tố giác, tin báo tội phạm chưa giải quyết trong kỳ).
          5.3. Chỉ tiêu về tỷ lệ số người bị bắt, tạm giữ về hình sự chuyển khởi tố
            - Chỉ tiêu cần phải đạt là: từ 95% trở lên.
          - Phương pháp tính chỉ tiêu: Số người bị bắt, tạm giữ chuyển xử lý hình sự trên tổng số người bị bắt, tạm giữ đã phân loại giải quyết; số không xử lý hình sự là dưới 5% (tỷ lệ này không bao gồm số bắt truy nã và các trường hợp người bị hại rút đơn hoặc không có đơn trong các vụ án khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, hoặc chính sách hình sự trong một số vụ án về an ninh quốc gia hoặc người nước ngoài phạm tội).
          5.4. Chỉ tiêu không để xảy ra việc tạm giữ, tạm giam vi phạm thời hạn luật định
            - Chỉ tiêu đặt ra là cần phải đạt 100%.
          - Phương pháp tính chỉ tiêu: Không có trường hợp nào bị giam, giữ trong quá trình điều tra để quá thời hạn luật quy định mà không có lệnh hoặc quyết định phê chuẩn của cơ quan có thẩm quyền.
          5.5. Chỉ tiêu về việc giải quyết án của năm trước chuyển sang
- Chỉ tiêu đưa ra là chậm nhất hết quý III phải giải quyết xong số án của năm trước chuyển sang.
- Phương pháp tính chỉ tiêu: Số án của năm trước chuyển sang nêu ở đây là số án Cơ quan điều tra thụ lý từ năm kế hoạch trước chuyển sang và chưa có quyết định xử lý, giải quyết, trừ số án tạm đình chỉ điều tra. Số án của năm trước chuyển sang được coi là đã giải quyết bao gồm: Án đã kết thúc điều tra bằng bản kết luận điều tra, chuyển hồ sơ đề nghị truy tố hoặc đình chỉ điều tra, án có quyết định tạm đình chỉ điều tra, án có quyết định chuyển vụ án cho cơ quan khác để giải quyết theo thẩm quyền.
5.6. Chỉ tiêu về tiến độ điều tra giải quyết án
- Chỉ tiêu về tiến độ giải quyết án là từ 80% trở lên.
          - Phương pháp tính chỉ tiêu: Tính tỷ lệ số án Cơ quan điều tra đã xử lý, giải quyết (kết thúc điều tra, chuyển hồ sơ đề nghị truy tố hoặc đình chỉ điều tra hoặc có quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án) trên tổng số vụ án Cơ quan điều tra thụ lý giải quyết trong kỳ (gồm cả số án tồn của kỳ trước chuyển sang). Tỷ lệ này không bao gồm số vụ án chuyển cho cơ quan khác giải quyết theo thẩm quyền.
5.7. Chỉ tiêu về án đình chỉ điều tra do bị can không phạm tội
- Chỉ tiêu đặt ra là phấn đấu 100% không có án đình chỉ điều tra do bị can không phạm tội.
- Phương pháp tính chỉ tiêu: Bị can được đình chỉ vì hành vi của họ không đủ yếu tố cấu thành tội phạm hoặc hết thời hạn điều tra nhưng không đủ chứng cứ chứng minh bị can đã thực hiện hành vi phạm tội hoặc họ bị khởi tố nhưng không có sự việc phạm tội xảy ra... Việc xác định các trường hợp đình chỉ điều tra do bị can không phạm tội trong chỉ tiêu này là những trường hợp do có lỗi chủ quan của Điều tra viên khi thực hiện chức trách, nhiệm vụ của mình.
5.8. Chỉ tiêu về án bị hủy để điều tra lại
- Chỉ tiêu đặt ra là phấn đấu 100% không có án bị hủy để điều tra lại.
- Phương pháp tính chỉ tiêu: Án bị hủy để điều tra lại ở các trình tự xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm do việc điều tra của Cơ quan điều tra không đầy đủ và có lỗi chủ quan của Điều tra viên khi thực hiện chức trách, nhiệm vụ.
5.9. Chỉ tiêu về tỷ lệ án trả hồ sơ để điều tra bổ sung
- Chỉ tiêu đưa ra là số án trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung không quá 6%.
- Phương pháp tính chỉ tiêu thực hiện theo Thông tư liên tịch số 01/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày 27/8/2010, hướng dẫn việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, cụ thể: Tỷ lệ này được tính bằng số vụ án hình sự do Viện kiểm sát đã quyết định trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung có căn cứ trên tổng số vụ Cơ quan điều tra đã có kết luận điều tra chuyển hồ sơ đề nghị truy tố (bao gồm cả số vụ kết thúc điều tra cũ chưa giải quyết và số vụ mới).
Số án trả điều tra bổ sung để tính tỷ lệ là số án Cơ quan điều tra phải chấp nhận điều tra bổ sung toàn bộ hay một phần mà có lỗi của Điều tra viên khi thực hiện chức trách, nhiệm vụ của mình.
5.10. Chỉ tiêu về kiến nghị xử lý, phòng ngừa vi phạm, tội phạm trong lĩnh vực tư pháp
- Yêu cầu: Chỉ tiêu cần đạt là 1 năm ít nhất 4 bản kiến nghị và được cơ quan tư pháp chấp nhận, tiếp thu.
          - Phương pháp tính chỉ tiêu: Kiến nghị nêu trên được hiểu là văn bản kiến nghị những vi phạm mang tính phổ biến trong lĩnh vực hoạt động tư pháp của cơ quan tư pháp.
6. Các nhóm chỉ tiêu về công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân và gia đình; công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại, lao động, hành chính và những việc khác theo quy định của pháp luật (gọi tắt là kiểm sát dân sự - hành chính) gồm 06 chỉ tiêu cơ bản cho từng lĩnh vực kiểm sát
Trong những năm qua, Viện kiểm sát các cấp đã tăng cường kiểm sát các bản án, quyết định của Toà án để tổng hợp vi phạm và kháng nghị, kiến nghị kịp thời. Số kiến nghị, kháng nghị ban hành qua hoạt động kiểm sát tăng lên; chất lượng kháng nghị được cải thiện… Tuy vậy, số kháng nghị Viện kiểm sát đã ban hành so với số án bị sửa, huỷ do có kháng cáo chiếm tỷ lệ rất thấp; số kiến nghị ban hành nhiều, nhưng việc tiếp thu, sửa chữa của cơ quan Toà án còn chưa triệt để, một số vi phạm mang tính phổ biến vẫn xảy ra. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự và Luật tố tụng hành chính đã tăng cường vai trò kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát đối với Toà án và những người tham gia tố tụng, mở rộng thẩm quyền tham gia tố tụng tại phiên toà của Viện kiểm sát. Điều đó đặt ra cho ngành Kiểm sát trách nhiệm lớn hơn để thực hiện tốt các quy định mới của Bộ luật tố tụng dân sự và Luật tố tụng hành chính.
Việc đưa ra các chỉ tiêu cơ bản trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ, việc dân sự - hành chính, chính là nhằm nâng cao chất lượng, khắc phục những hạn chế nêu trên. Các chỉ tiêu đó là: 
6.1. Chỉ tiêu về số vụ án sơ thẩm, phúc thẩm có kháng cáo, kháng nghị bị Toà án cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm xét xử tuyên huỷ có trách nhiệm của Viện kiểm sát
- Chỉ tiêu áp dụng cho Viện kiểm sát cấp huyện, Viện kiểm sát cấp tỉnh và các Viện Phúc thẩm 1,2,3 là: Không có án bị huỷ có liên quan đến trách nhiệm của Viện kiểm sát.
- Phương pháp tính chỉ tiêu: Các vụ án bị Toà án cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm xét xử tuyên huỷ có trách nhiệm của Viện kiểm sát trong quá trình kiểm sát không phát hiện được vi phạm để chấn chỉnh, kháng nghị hoặc quan điểm đề nghị giải quyết vụ án sai...
6.2. Chỉ tiêu về số lượng kháng nghị của Viện kiểm sát
* Số lượng kháng nghị phúc thẩm ngang cấp:
- Chỉ tiêu này áp dụng cho Viện kiểm sát cấp tỉnh và Viện kiểm sát cấp huyện, tỷ lệ kháng nghị phúc thẩm ngang cấpcần đạt ít nhất là 10% trên số án sơ thẩm bị cấp phúc thẩm sửa, huỷ.
- Phương pháp tính chỉ tiêu: Số kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát cấp sơ thẩm so với bản án, quyết định bị Tòa cấp phúc thẩm xét xử tuyên sửa hoặc hủy trong thời điểm báo cáo (bao gồm cả án bị sửa, huỷ một phần và án bị sửa, huỷ toàn bộ); những bản án, quyết định bị sửa, hủy ở đây là những bản án, quyết định đã bị cấp phúc thẩm tuyên sửa hoặc huỷ và chuyển hồ sơ cho Toà án cấp sơ thẩm để giải quyết lại vụ án, hoặc huỷ và đình chỉ giải quyết vụ án (không bao gồm: trường hợp sửa bản án sơ thẩm và công nhận sự thoả thuận của các đương sự khi tại phiên toà phúc thẩm, các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 270 Bộ luật tố tụng dân sự; một số trường hợp bị huỷ và đình chỉ giải quyết vụ án trong quy định tại Điều 278 Bộ luật tố tụng dân sự, khoản 31 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự; trường hợp bản án sơ thẩm bị huỷ do người khởi kiện rút đơn khởi kiện theo điểm b khoản 1 Điều 203 Luật tố tụng hành chính, bị huỷ do có chứng cứ mới quan trọng mà Toà án cấp phúc thẩm không thể bổ sung được theo khoản 3 Điều 205 Luật tố tụng hành chính, bị huỷ do phát sinh tình tiết mới, một số trường hợp bị huỷ trong quy định tại khoản 4 Điều 205, Điều 228, khoản 1 Điều 120 Luật tố tụng hành chính, và các trường hợp bị sửa, huỷ khác không thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát).
* Số lượng kháng nghị của Viện kiểm sát cấp trên:
- Chỉ tiêu áp dụng:
 + Viện kiểm sát cấp tỉnh: số kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm chiếm ít nhất 10% tổng số các vụ án bị Toà án nhân dân tỉnh xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm tuyên sửa, huỷ án.
+ Viện Phúc thẩm 1, 2, 3: kháng nghị chiếm ít nhất 5% tổng số các vụ án bị Toà án nhân dân tối cao xét xử phúc thẩm sửa án hoặc huỷ án.
- Phương pháp tính chỉ tiêu: Số kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm trên một cấp so với số bản án, quyết định sơ thẩm, phúc thẩm bị sửa, huỷ một phần và toàn bộ trong thời điểm báo cáo (không bao gồm: trường hợp sửa bản án sơ thẩm và công nhận sự thoả thuận của các đương sự khi tại phiên toà phúc thẩm, các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 270 Bộ luật tố tụng dân sự; một số trường hợp bị huỷ trong quy định tại Điều 278, 300 Bộ luật tố tụng dân sự, khoản 31 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự, bị huỷ do phát sinh tình tiết mới; trường hợp bản án sơ thẩm bị huỷ do người khởi kiện rút đơn khởi kiện theo điểm b khoản 1 Điều 203 Luật tố tụng hành chính, bị huỷ do có chứng cứ mới quan trọng mà Toà án cấp phúc thẩm không thể bổ sung được theo khoản 3 Điều 205 Luật tố tụng hành chính, một số trường hợp bị huỷ trong quy định tại khoản 4 Điều 205, khoản 1 Điều 120 Luật tố tụng hành chính, và các trường hợp bị sửa, huỷ khác không thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát).
6.3. Chỉ tiêu về chất lượng kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát
- Chỉ tiêu này áp dụng như sau:
+ Kháng nghị ngang cấp, áp dụng cho Viện kiểm sát cấp tỉnh và Viện kiểm sát cấp huyện: Số vụ, việc Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm ngang cấp được Viện kiểm sát cấp phúc thẩm bảo vệ kháng nghị trên số vụ, việc Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm ngang cấp. Chỉ tiêu cần đạt là từ 90% trở lên (đối với án dân sự) và 85% trở lên (đối với án hành chính).
+ Số vụ, việc Viện kiểm sát bảo vệ kháng nghị phúc thẩm được Tòa án xét xử chấp nhận trên số vụ, việc Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm đã xét xử. Chỉ tiêu này áp dụng cho Viện kiểm sát cấp tỉnh và các Viện Phúc thẩm 1,2,3, mức cần đạt là từ 80% trở lên (đối với án dân sự) và 75% trở lên (đối với án hành chính).
- Phương pháp tính chỉ tiêu:
+ Về kháng nghị ngang cấp được Viện kiểm sát bảo vệ: Tính tỷ lệ số vụ, việc Viện kiểm sát cấp sơ thẩm (Viện kiểm sát cấp tỉnh hoặc cấp huyện) kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết định của Tòa án cùng cấp và được Viện kiểm sát cấp phúc thẩm bảo vệ kháng nghị trên số vụ, việc Viện kiểm sát cấp sơ thẩm kháng nghị phúc thẩm đối với bản án, quyết định của Tòa án cùng cấp đó.
+ Về kháng nghị Viện kiểm sát bảo vệ được Tòa án xét xử chấp nhận: Tính tỷ lệ số vụ, việc có kháng nghị phúc thẩm (Viện kiểm sát cấp tỉnh hoặc các Viện Phúc thẩm 1,2,3) được Viện kiểm sát cấp phúc thẩm bảo vệ và Tòa án xét xử chấp nhận trên số vụ, việc Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm đã được Tòa án xét xử.
6.4. Chỉ tiêu về chất lượng kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm của Viện kiểm sát
- Chỉ tiêu này áp dụng cho VKSND tối cao và VKSND cấp tỉnh, bao gồm:
+ Tỷ lệ về số kháng nghị của Viện kiểm sát bảo vệ được Toà án xét xử chấp nhận cần đạt ít nhất 85%.
+ Tỷ lệ về số kháng nghị của Viện kiểm sát bị rút không quá 10%.
- Phương pháp tính chỉ tiêu:
 + Tính số vụ, việc Viện kiểm sát bảo vệ kháng nghị được Toà án xét xử chấp nhận toàn bộ kháng nghị trên số vụ, việc Viện kiểm sát kháng nghị chuyển Toà đã xét xử. 
+ Số vụ, việc Viện kiểm sát rút kháng nghị (một phần hoặc toàn bộ) trên số vụ, việc Viện kiểm sát kháng nghị (kể cả rút tại Toà).
6.5. Chỉ tiêu về việc Viện kiểm sát ban hành kiến nghị yêu cầu khắc phục vi phạm của Toà án trong công tác giải quyết các vụ, việc dân sự - hành chính
- Chỉ tiêu áp dụng đối với Viện kiểm sát cấp huyện; các phòng Kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự và hành chính Viện kiểm sát cấp tỉnh; Vụ 5, Vụ 12, Viện Phúc thẩm 1, 2, 3 VKSND tối cao. Mức cần đạt là mỗi đơn vị 1 năm có ít nhất 1 bản kiến nghị và được cơ quan Toà án chấp nhận, tiếp thu.
          - Phương pháp tính chỉ tiêu: Kiến nghị để tính chỉ tiêu ở đây là những kiến nghị được ban hành bằng văn bản, tổng hợp những vi phạm mang tính phổ biến trong công tác giải quyết các vụ, việc dân sự - hành chính (không bao gồm những kiến nghị về những vụ, việc cụ thể).
6.6. Chỉ tiêu về ban hành thông báo rút kinh nghiệm nghiệp vụ trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự - hành chính
- Chỉ tiêu áp dụng cho các phòng kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự và hành chính VKSND cấp tỉnh và Vụ 5, Vụ 12, Viện Phúc thẩm 1, 2, 3 VKSND tối cao, chỉ tiêu cần đạt là mỗi đơn vị trong 1 quý có ít nhất 1 thông báo rút kinh nghiệm nghiệp vụ đối với Viện kiểm sát cấp dưới.
- Phương pháp tính chỉ tiêu: Thông báo rút kinh nghiệm được ban hành bằng văn bản, về những vấn đề mang tính phổ biến, chỉ đạo chung đối với các đơn vị cấp dưới.
7. Nhóm chỉ tiêu về công tác kiểm sát thi hành án hình sự gồm 06 chỉ tiêu cơ bản
Để thực hiện tốt chức năng của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án hình sự, các cấp kiểm sát cần có những biện pháp tích cực kiểm sát chặt chẽ việc ra quyết định thi hành án; các trường hợp hoãn, tạm đình chỉ, trốn thi hành án; chú trọng kiểm sát trực tiếp việc tuân theo pháp luật trong công tác thi hành án tại các cơ quan thi hành án hình sự và các tổ chức liên quan, việc tổng hợp vi phạm, vướng mắc để kháng nghị, kiến nghị yêu cầu khắc phục, đồng thời rút kinh nghiệm về nghiệp vụ để nâng cao chất lượng công tác kiểm sát. Các chỉ tiêu trong công tác kiểm sát thi hành án hình sự là:
7.1. Chỉ tiêu về kiểm sát trực tiếp hoạt động thi hành án của cơ quan thi hành án hình sự
- Yêu cầu: Chỉ tiêu về kiểm sát trực tiếp hoạt động thi hành án hình sự được tiến hành tập trung ở hai nội dung kiểm sát liên quan đến hoạt động thi hành án của hai cơ quan liên quan là:
+ Kiểm sát trực tiếp công tác tổ chức, quản lý, thực hiện các chế độ về thi hành án phạt tù đối với cơ quan thi hành án hình sự và trại giam của cơ quan Công an.
+ Kiểm sát trực tiếp công tác giám sát, giáo dục về thi hành án phạt tù nhưng cho hưởng án treo và thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ của Ủy ban nhân dân cấp xã.  
Chỉ tiêu đặt ra cho 3 cấp kiểm sát là:
+ Đối với VKSND cấp huyện: 1 năm ít nhất tiến hành kiểm sát trực tiếp 1 lần tại cơ quan Thi hành án hình sự Công an huyện và 20% số UBND cấp xã có người đang thi hành án treo, cải tạo không giam giữ.
+ Đối với VKSND cấp tỉnh: 1 năm ít nhất tiến hành kiểm sát trực tiếp 1 lần tại cơ quan Thi hành án hình sự Công an tỉnh và trại giam đóng trên địa bàn tỉnh; ít nhất 6 tháng 1 lần tiến hành kiểm sát trực tiếp trại tạm giam Công an tỉnh.
+ Đối với VKSND tối cao phối hợp với Viện kiểm sát cấp tỉnh: 1 năm ít nhất tiến hành kiểm sát trực tiếp từ 2 đến 4 trại giam thuộc Bộ Công an hoặc cơ quan Thi hành án hình sự cấp tỉnh hoặc huyện.       
- Phương pháp tính chỉ tiêu: Có quyết định, kế hoạch kiểm sát trực tiếp và đã ban hành văn bản kết luận.
7.2. Chỉ tiêu kiểm sát việc ra quyết định về thi hành án của Toà án trong thời hạn luật định
- Yêu cầu: Chỉ tiêu này áp dụng cho VKSND cấp tỉnh, VKSND cấp huyện là đạt 100%.
- Phương pháp tính chỉ tiêu: Căn cứ tính chỉ tiêu là sổ thụ lý theo dõi và phiếu kiểm sát quyết định về thi hành án hình sự.
7.3. Chỉ tiêu kiểm sát việc lập hồ sơ về giảm án, tạm đình chỉ, hoãn, miễn thi hành án... đúng pháp luật
- Yêu cầu cần đạt đối với chỉ tiêu này áp dụng cho VKSND cấp tỉnh, VKSND cấp huyện là 100%.
- Phương pháp tính chỉ tiêu: Khi tiến hành kiểm sát việc lập hồ sơ của Toà án, Viện kiểm sát đồng thời lập hồ sơ kiểm sát phản ánh đầy đủ các tài liệu liên quan đến việc ra quyết định của Toà án. Vì vậy, căn cứ để tính chỉ tiêu này là thông qua việc lập hồ sơ kiểm sát của Viện kiểm sát.  
7.4. Chỉ tiêu về bắt thi hành án hình sự số bị án bị phạt tù đang tại ngoại, không tự nguyện thi hành án và có đủ điều kiện bắt, đảm bảo đúng thời hạn
- Yêu cầu cần đạt đối với chỉ tiêu này áp dụng cho VKSND cấp tỉnh, VKSND cấp huyện là 100%.
- Phương pháp tính chỉ tiêu: Để thực hiện chỉ tiêu trên phải có đủ hai điều kiện là:
+ Người bị kết án phạt tù đang tại ngoại, không tự nguyện thi hành án (tức là đã quá thời hạn tự nguyện thi hành án nhưng người bị kết án không có mặt ở cơ quan Công an để chấp hành án);
+ Có đủ điều kiện bắt thi hành án (đã xác định được người bị kết án phạt tù đang ở đâu; các điều kiện để tổ chức bắt;...).
Đối với những trường hợp này, Viện kiểm sát phải theo dõi việc cơ quan Công an bắt, áp giải thi hành án. Nếu cơ quan Công an không bắt, áp giải thì Viện kiểm sát phải có văn bản yêu cầu Công an bắt, áp giải thi hành án. Trường hợp người bị kết án phạt tù trốn mà Công an không truy nã thì Viện kiểm sát phải có văn bản đề nghị Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án yêu cầu Công an ra quyết định truy nã và áp dụng các biện pháp truy bắt đối tượng để thi hành án.
Khi tiến hành kiểm sát việc bắt thi hành án của cơ quan Công an, Viện kiểm sát phải kiểm sát 100% hồ sơ bắt thi hành án nhằm nắm được tiến độ, đồng thời có yêu cầu cơ quan Công an đề ra các biện pháp bắt thi hành án kịp thời, hiệu quả. Căn cứ xác định chỉ tiêu là hồ sơ, tài liệu kiểm sát về bắt thi hành án hình sự. 
7.5. Chỉ tiêu về ban hành kháng nghị, kiến nghị yêu cầu khắc phục vi phạm trong hoạt động thi hành án hình sự; kết quả tiếp thu, sửa chữa
          - Chỉ tiêu này áp dụng cho cả 3 cấp kiểm sát là: 1 năm ít nhất ban hành 1 kháng nghị hoặc kiến nghị và được cơ quan Thi hành án hình sự chấp nhận, tiếp thu.
          - Phương pháp tính chỉ tiêu: Kháng nghị, kiến nghị nêu trên được hiểu là văn bản kháng nghị, kiến nghị những vi phạm mang tính phổ biến trong hoạt động thi hành án hình sự.
7.6. Chỉ tiêu về ban hành thông báo rút kinh nghiệm nghiệp vụ
          - Chỉ tiêu cụ thể là:
+ Đối với VKSND cấp tỉnh: 1 quý ít nhất có 1 thông báo rút kinh nghiệm nghiệp vụ đối với VKSND cấp huyện.
+ Đối với VKSND tối cao: 1 quý ít nhất có 1 thông báo rút kinh nghiệm nghiệp vụ đối với VKSND cấp tỉnh.
- Phương pháp tính chỉ tiêu: Thông báo rút kinh nghiệm được ban hành bằng văn bản, về những vấn đề mang tính phổ biến, chỉ đạo chung đối với các đơn vị Viện kiểm sát cấp dưới.
8. Nhóm chỉ tiêu về công tác kiểm sát thi hành án dân sự gồm 05 chỉ tiêu cơ bản
8.1. Chỉ tiêu về việc kiểm sát trực tiếp hoạt động thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự
- Chỉ tiêu áp dụng cho 3 cấp kiểm sát như sau:
+ Đối với VKSND cấp tỉnh và VKSND cấp huyện: 1 năm tiến hành kiểm sát trực tiếp ít nhất 1 lần tại cơ quan Thi hành án dân sự.
+ Đối với Vụ Kiểm sát thi hành án dân sự thuộc VKSND tối cao: Phối hợp với Viện kiểm sát cấp tỉnh kiểm sát trực tiếp ít nhất từ 2 đến 4 cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh hoặc huyện/ 1 năm       
- Phương pháp tính chỉ tiêu: Có quyết định, kế hoạch kiểm sát trực tiếp và đã ban hành văn bản kết luận.
8.2. Chỉ tiêu kiểm sát việc ra quyết định về thi hành án của cơ quan Thi hành án dân sự trong thời hạn luật định
- Yêu cầu: Chỉ tiêu này áp dụng cho VKSND cấp tỉnh, VKSND cấp huyện là đạt 100%.
- Phương pháp tính chỉ tiêu: Căn cứ tính chỉ tiêu là sổ thụ lý theo dõi và phiếu kiểm sát quyết định về thi hành án dân sự.
8.3. Chỉ tiêu kiểm sát các hồ sơ hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ, xác minh, phân loại điều kiện thi hành án... đảm bảo đúng quy định của pháp luật
- Yêu cầu cần đạt đối với chỉ tiêu này áp dụng cho VKSND cấp tỉnh, VKSND cấp huyện là 100%.
- Phương pháp tính chỉ tiêu: Khi tiến hành kiểm sát hồ sơ hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ, xác minh, phân loại điều kiện thi hành án... Viện kiểm sát cần đồng thời lập hồ sơ kiểm sát phản ánh đầy đủ các tài liệu liên quan đến việc hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ, xác minh, phân loại điều kiện thi hành án.... Vì vậy, căn cứ để tính chỉ tiêu này là thông qua việc lập hồ sơ kiểm sát của Viện kiểm sát.  
8.4. Chỉ tiêu về ban hành kháng nghị, kiến nghị vi phạm trong hoạt động thi hành án dân sự
          - Chỉ tiêu này áp dụng cho cả 3 cấp kiểm sát là: 1 năm ít nhất ban hành 1 kháng nghị hoặc kiến nghị và được cơ quan Thi hành án dân sự chấp nhận, tiếp thu.
- Phương pháp tính chỉ tiêu: Kháng nghị, kiến nghị nêu trên được hiểu là văn bản kháng nghị, kiến nghị những vi phạm mang tính phổ biến trong hoạt động thi hành án dân sự.
8.5. Chỉ tiêu về ban hành thông báo rút kinh nghiệm nghiệp vụ
- Chỉ tiêu cụ thể là:
+ Đối với VKSND cấp tỉnh: 1 quý ít nhất có 1 thông báo rút kinh nghiệm nghiệp vụ đối với VKSND cấp huyện.
+ Đối với VKSND tối cao: 1 quý ít nhất có 1 thông báo rút kinh nghiệm nghiệp vụ đối với VKSND cấp tỉnh.
- Phương pháp tính chỉ tiêu: Thông báo rút kinh nghiệm được ban hành bằng văn bản, về những vấn đề mang tính phổ biến, chỉ đạo chung đối với các đơn vị cấp dưới.
9. Nhóm chỉ tiêu về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp gồm 07 chỉ tiêu cơ bản 
Trong những năm qua, công tác kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp được quan tâm và đạt kết quả, đặc biệt thông qua hoạt động trực tiếp kiểm sát của Viện kiểm sát đã góp phần nâng cao trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp, chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp đã có chuyển biến tích cực. Bên cạnh đó, trong công tác này còn một số hạn chế cần khắc phục là: Tiến độ giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát chưa đảm bảo so với yêu cầu, tỷ lệ giải quyết những năm gần đây giảm; đặc biệt là số lượng giải quyết đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm rất thấp... Vì vậy, việc đưa ra tiêu chí xác định các chỉ tiêu cơ bản trong lĩnh vực công tác này chính là nhằm khắc phục những hạn chế nêu trên và phát huy hơn nữa những kết quả đã đạt được. Các chỉ tiêu đó bao gồm:
9.1. Chỉ tiêu về tổ chức công tác tiếp dân đảm bảo đúng quy định của pháp luật
- Yêu cầu: Chỉ tiêu đặt ra cho nội dung trên đối với cả 3 cấp kiểm sát là tổ chức tiếp công dân 100% đảm bảo đúng quy định của pháp luật.
- Phương pháp tính chỉ tiêu: Dựa trên các quy định của pháp luật, của Ngành, của đơn vị để xác định chỉ tiêu về tổ chức công tác tiếp dân, cụ thể: tất cả các trường hợp công dân đến trụ sở Viện kiểm sát khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, đề nghị… đều được tiếp đúng quy định; việc bố trí phòng tiếp dân, lịch tiếp dân; phân công cán bộ tiếp công dân, lãnh đạo tiếp công dân… đảm bảo đúng quy định của pháp luật, của Ngành.
9.2. Chỉ tiêu không có khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát để quá hạn
- Yêu cầu: Chỉ tiêu đặt ra cho cả 3 cấp kiểm sát là 100% không có khiếu nại, tố cáo để quá hạn.
- Phương pháp tính: Dựa trên các quy định hiện hành của pháp luật về khiếu nại, tố cáo về thời hạn giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo.
9.3. Chỉ tiêu không có đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm để quá hạn mà không xử lý, giải quyết
- Yêu cầu: Chỉ tiêu này áp dụng đối với VKSND cấp tỉnh và VKSND tối cao là 100% không có đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm để quá hạn mà không xử lý, giải quyết.
- Phương pháp tính: Tất cả các đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm Viện kiểm sát thụ lý đều được xử lý, giải quyết dứt điểm trong thời hạn theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự, dân sự, hành chính,...
9.4. Chỉ tiêu về tỷ lệ giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát
- Yêu cầu: Chỉ tiêu đặt ra áp dụng cho cả 3 cấp kiểm sát đạt từ 70% trở lên.
- Phương pháp tính chỉ tiêu: Tỷ lệ giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát được xác định bằng số đơn khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền đã được giải quyết trên số đơn khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền Viện kiểm sát phải giải quyết; việc giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát phải bằng văn bản.
9.5. Chỉ tiêu về tỷ lệ giải quyết đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm của Viện kiểm sát
- Chỉ tiêu này áp dụng đối với VKSND cấp tỉnh và VKSND tối cao như sau:
+ Đối với VKSND cấp tỉnh: Tỷ lệ giải quyết đạt từ 80% trở lên.
+ Đối với VKSND tối cao (Vụ 3, Vụ 5 và Vụ 12): Tỷ lệ giải quyết đạt từ 25% trở lên.
- Phương pháp tính chỉ tiêu: Số đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm Viện kiểm sát đã giải quyết trên số đơn Viện kiểm sát phải giải quyết; việc giải quyết đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm của Viện kiểm sát phải bằng văn bản.
9.6. Chỉ tiêu về trực tiếp kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp trong tố tụng hình sự
- Yêu cầu: Chỉ tiêu đặt ra áp dụng cho cả 3 cấp kiểm sát là 1 năm kiểm sát trực tiếp ít nhất 1 đơn vị.
- Phương pháp tính chỉ tiêu: Việc trực tiếp kiểm sát ở đây chỉ tiến hành trong tố tụng hình sự, đối với Cơ quan điều tra, Toà án cùng cấp và cấp dưới; có thể áp dụng trong trường hợp phát hiện các dạng vi phạm phổ biến, diễn ra thường xuyên hoặc vi phạm ở từng vụ việc cụ thể; có thể cùng kết hợp với kiểm sát trực tiếp việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Căn cứ để tính chỉ tiêu là có quyết định, kế hoạch trực tiếp kiểm sát và đã ban hành văn bản kết luận, kiến nghị hoặc kháng nghị.
9.7. Chỉ tiêu về ban hành thông báo rút kinh nghiệm nghiệp vụ
- Chỉ tiêu cụ thể là:
+ Đối với VKSND cấp tỉnh: 1 quý ít nhất có 1 thông báo rút kinh nghiệm nghiệp vụ đối với VKSND cấp huyện.
+ Đối với VKSND tối cao: 1 quý ít nhất có 1 thông báo rút kinh nghiệm nghiệp vụ đối với VKSND cấp tỉnh.
- Phương pháp tính chỉ tiêu: Thông báo rút kinh nghiệm được ban hành bằng văn bản, về những vấn đề mang tính phổ biến, chỉ đạo chung đối với các đơn vị cấp dưới.
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN HỆ THỐNG CHỈ TIÊU NGHIỆP VỤ CƠ BẢN
1. Căn cứ vào các nhiệm vụ trọng tâm công tác kiểm sát hàng năm, Viện kiểm sát các cấp, các đơn vị trực thuộc xây dựng kế hoạch, chương trình công tác gắn với thực hiện các chỉ tiêu nghiệp vụ cơ bản để triển khai thực hiện thống nhất trong toàn Ngành.
2. Văn phòng có trách nhiệm giúp lãnh đạo Viện kiểm tra việc xây dựng kế hoạch, chương trình công tác của các đơn vị cho phù hợp với các nhiệm vụ trọng tâm và hệ thống chỉ tiêu nghiệp vụ cơ bản; đồng thời, giúp lãnh đạo Viện đánh giá kết quả, tiến độ thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị, các phòng, các bộ phận công tác; qua đó, tiến hành kiểm điểm hàng tháng, quý, 6 tháng, năm, chỉ ra được những công việc làm tốt và chưa tốt, những chỉ tiêu đạt được và chưa đạt được; từ đó, có sự điều chỉnh kịp thời và đề ra các biện pháp hiệu quả, đảm bảo thực hiện đúng tiến độ và hoàn thành tốt nhiệm vụ theo kế hoạch đã đề ra.
3. Đây là các chỉ tiêu nghiệp vụ cơ bản, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, các đơn vị có thể đề ra một số chỉ tiêu khác để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ, nhưng các chỉ tiêu đó không được trái với các chỉ tiêu nghiệp vụ cơ bản, mức chỉ tiêu có thể cao hơn, nhưng không được thấp hơn chỉ tiêu nghiệp vụ cơ bản.
4. Văn phòng Viện kiểm sát nhân dân các cấp phải coi nhiệm vụ kiểm tra, đánh giá chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp thông qua hệ thống chỉ tiêu nghiệp vụ cơ bản là yêu cầu bắt buộc, thường xuyên của Văn phòng; trên cơ sở đó, phân công cán bộ theo dõi kết quả thực hiện của từng đơn vị, lĩnh vực công tác cụ thể. Qua đó, nêu lên những chỉ tiêu đạt tốt; nêu rõ những sáng kiến, giải pháp mới để thực hiện tốt các chỉ tiêu, có tác dụng thúc đẩy tiến độ, nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện các khâu công tác nghiệp vụ; đồng thời, chỉ ra được những mặt còn hạn chế, các chỉ tiêu không hoàn thành để có biện pháp tham mưu cho lãnh đạo Viện có chỉ đạo kịp thời./.  
 
VĂN PHÒNG
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
 
Viện kiểm sát nhân dân
 Tối cao 
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
 HƯỚNG DẪN
XÂY DỰNG BÁO CÁO, CHƯƠNG TRÌNH, KẾ HOẠCH CÔNG TÁC
TRONG NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN
   (Ban hành kèm theo Quyết định số 515/QĐ-VKSTC ngày 14/09/2012 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao) 
I. Báo cáo công tác tuần
1. Hình thức, thời điểm lấy số liệu Báo cáo.
+ Là một hình thức thông tin nhanh trong tuần của thủ trư­ởng các đơn vị trực thuộc, Viện kiểm sát quân sự và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương với Viện trư­ởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về tình hình và kết quả công tác của đơn vị trong tuần.
+ Căn cứ Điều 8, điểm 1 Quy chế 379 quy định thời gian lấy số liệu báo cáo, nội dung báo cáo và thời hạn gửi báo cáo tuần như sau: “Viện kiểm sát cấp huyện và các phòng nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát cấp tỉnh có báo cáo ở Viện kiểm sát cấp tỉnh (đơn vị làm công tác tham mưu, tổng hợp) vào 13 giờ thứ Tư của tuần báo cáo. Viện kiểm sát cấp tỉnh, các đơn vị thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao có báo cáo ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao (phòng Tổng hợp Văn phòng) trước 10 giờ thứ Năm của tuần báo cáo. Viện kiểm sát nhân dân tối cao có báo cáo công tác tuần vào chiều thứ Năm của tuần báo cáo”.
2. Nội dung và kết cấu Báo cáo.
 Về kết cấu và nội dung báo cáo công tác tuần của Viện kiểm sát địa phương, báo cáo tuần của các đơn vị thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao gồm 4 phần.
- Phần T×nh h×nh tội phạm
Đối với các Viện kiểm sát địa phương: phản ánh số liệu phát hiện và khởi tố bao nhiêu vụ và khái quát những vụ việc điển hình (về tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi xảy ra trong thời gian báo cáo) ở các nhóm tội về an ninh; ma túy; tham nhũng- chức vụ; kinh tế và môi trường; xâm phạm sở hữu; trật tự an toàn xã hội; xâm phạm hoạt động tư pháp.
Đối với các Vụ nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao: Nêu khái quát tình hình tội phạm thuộc lĩnh vực đơn vị phụ trách thông qua nắm tình hình và báo cáo nhanh của địa phương. 
- Phần Hoạt động công tác kiểm sát và phần công tác xây dựng Ngành
Nêu kết quả công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động t­ư pháp trong lĩnh vự hình sự; công tác kiểm sát các hoạt động tư­ pháp trong lĩnh vực dân sự, hành chính, kinh doanh, th­ương mại, lao động và các việc khác theo quy định của pháp luật; kiểm sát thi hành án; giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền và kiểm sát giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động t­ư pháp. Thông qua công tác kiểm sát nếu phát hiện vi phạm của các cơ quan tư­ pháp và đ­ưa vào báo cáo tuần thì nêu nội dung vi phạm, hậu quả; số, ngày, tháng kiến nghị, kháng nghị, quan điểm chỉ đạo giải quyết của lãnh đạo Viện.
Đối với các khâu công tác nghiệp vụ, công tác xây dựng Ngành, chỉ tập trung nêu những công việc chính mới triển khai thực hiện hoặc kết thúc trong tuần; nếu công tác quan trọng thì nêu tiến độ thực hiện, bổ sung, điều chỉnh kế hoạch (nếu có).
Khi thấy cần thiết phải đề xuất, kiến nghị với Viện kiểm sát cấp trên thì nêu ngắn gọn vào phần cuối của báo cáo.
- Phần Phương hướng công tác tuần tới
Nêu những nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện trong tuần tới.
Lưu ý : Riêng báo cáo của các đơn vị thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, trước phần “Phương hướng công tác tuần tới” là phần “Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Lãnh đạo đơn vị”, trong đó nhận xét, đánh giá về chất lượng, hiệu quả công tác trong tuần của đơn vị, những khó khăn, vướng mắc, đề xuất và kiến nghị (nếu có).
3. Trình tự và phư­ơng pháp xây dựng Báo cáo.
Báo cáo công tác tuần cần nêu ngắn gọn, đầy đủ các thông tin trong tuần theo thứ tự các nội dung công tác đơn vị thực hiện. Ng­ười làm báo cáo cần chắt lọc và đưa những thông tin điển hình về kết quả của các khâu công tác theo chức năng nhiệm vụ nh­ư phân tích ở trên.
Báo cáo công tác tuần của Viện kiểm sát nhân dân tối cao được xây dựng từ báo cáo tuần của các đơn vị trực thuộc và Viện kiểm sát địa phương, Viện kiểm sát Quân sự trung ương gửi Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Văn phòng Viện kiểm sát nhân dân tối cao tổng hợp báo cáo Lãnh đạo Viện hàng tuần, sau đó làm thông báo tình hình vi phạm, tội phạm và công tác kiểm sát gửi các đơn vị thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát địa ph­ương, Viện kiểm sát Quân sự trung ương.
II. Báo cáo công tác tháng
1. Hình thức, thời điểm lấy số liệu Báo cáo.
Báo cáo tháng là báo cáo định kỳ về tình hình, kết quả công tác của Viện trưởng Viện kiểm sát cấp dưới gửi Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp, của Trưởng phòng nghiệp vụ ở Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh gửi Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc gửi Viện trưởngViện kiểm sát nhân dân tối cao thông qua Văn phòng.Theo quy định tại Điều 8, điểm 3 Quy chế 379 quy định: “Nội dung báo cáo đánh giá khái quát tình hình tội phạm và kết quả công tác trong tháng trên tất cả các lĩnh vực theo chức năng, nhiệm vụ đ­ược phân công; những kiến nghị đề xuất với Viện kiểm sát cấp trên (nếu có)”.
Thời điểm lấy và chốt số liệu báo cáo tháng từ ngày 01 đến ngày cuối cùng của tháng.
2. Nội dung và kết cấu Báo cáo.
   - Đối với Viện kiểm sát địa phương
 + Tình hình tội phạm 
Trong từng nhóm tội về an ninh; ma túy; tham nhũng- chức vụ; kinh tế và môi trường; xâm phạm sở hữu; trật tự an toàn xã hội; xâm phạm hoạt động tư pháp phải nêu được số vụ, bị can đã khởi tố trong tháng, so sánh tăng, giảm so với tháng trước; khái quát những vụ việc điển hình (về thời gian, địa điểm, tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi... xảy ra trong thời gian báo cáo).
            - Đối với các đơn vị nghiệp vụ:
 + Tình hình tội phạm:
Tổng hợp, phân tích tình hình vi phạm, tội phạm trong tháng, có so sánh về số vụ việc vi phạm, tội phạm xảy ra so với tháng tr­ước. Cần chú ý là chỉ báo cáo các vụ việc tội phạm xảy ra đã đư­ợc khởi tố và vi phạm pháp luật thông qua giải quyết các vụ án hình sự, dân sự...
- Kết quả hoạt động kiểm sát và công tác xây dựng Ngành:
Nêu những kết quả trọng tâm của các khâu thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động t­ư pháp hình sự; công tác điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư­ pháp (của Cục Điều tra); công tác kiểm sát các hoạt động t­ư pháp trong lĩnh vực dân sự, hành chính, kinh doanh, th­ương mại, lao động và các việc khác theo quy định của pháp luật; kiểm sát thi hành án; giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền và kiểm sát giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư­ pháp; công tác xây dựng Ngành. Căn cứ để đánh giá mức độ, kết quả công tác kiểm sát hàng tháng phải căn cứ vào các chỉ tiêu nghiệp vụ nêu trong Chỉ thị công tác năm của Viện trư­ởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, nhiệm vụ trọng tâm của đơn vị đề ra của tháng tr­ước và các yêu cầu nhiệm vụ đang tiếp tục thực hiện theo kế hoạch; khi phân tích tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác cần so sánh số liệu của tháng tr­ước.
Báo cáo công tác tháng là kết quả của một thời điểm thực hiện chức năng, nhiệm vụ, về mặt số liệu cũng tư­ơng đối ổn định, có thể đ­ưa ra các nhận xét, đánh giá về chất lư­ợng, hiệu quả công tác kiểm sát. Vì vậy, cần nêu những biện pháp tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thuận lợi, khó khăn, dự kiến biện pháp khắc phục, kiến nghị với cấp trên về biện pháp tháo gỡ khó khăn. Công tác xây dựng Ngành cần nêu những việc chính như­ công tác tổ chức, cán bộ, xây dựng chuyên đề, nghiên cứu khoa học, xây dựng pháp luật, tuyên truyền pháp luật, công tác hậu cần.
- Các công tác trọng tâm của tháng sau:
Nêu những nhiệm vụ trọng tâm nhất để thực hiện kế hoạch, ch­ương trình công tác đã đề ra hoặc chỉ đạo của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
 
- Đối với các đơn vị khác:
+ Tình hình:
Tổng hợp, phân tích tình hình có liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của đơn vị.
+ Kết quả công tác của đơn vị:
 Tùy theo chức năng, nhiệm vụ đặc thù của từng đơn vị để nêu những kết quả trọng tâm đã đạt được trong tháng, gồm:
+ Những công tác đã thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ thư­ờng xuyên của đơn vị.
+ Những công tác do Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao giao cho đơn vị.
+ Những công việc đã đề ra trong Ch­ương trình công tác tháng của đơn vị.
Cần có các nhận xét, đánh giá về chất lư­ợng, hiệu quả công tác do đơn vị thực hiện; nêu những biện pháp tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thuận lợi, khó khăn, dự kiến biện pháp khắc phục, kiến nghị với cấp trên về biện pháp tháo gỡ khó khăn.
Về xây dựng Ngành cần nêu những việc chính sau: Công tác tổ chức, cán bộ, xây dựng chuyên đề, nghiên cứu khoa học, xây dựng pháp luật, tuyên truyền pháp luật, công tác hậu cần.
+ Các công tác trọng tâm của tháng sau:
Nêu những nhiệm vụ trọng tâm để thực hiện kế hoạch, ch­ương trình công tác đã đề ra hoặc chỉ đạo của Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
3. Trình tự và phư­ơng pháp xây dựng Báo cáo.
Nội dung, trình tự và thời gian làm và gửi báo cáo tháng đ­ược quy định tại Điều 8, điểm 3 của Quy chế 379 quy định:
“Viện kiểm sát cấp huyện có báo cáo công tác tháng ở Viện kiểm sát cấp tỉnh (đơn vị làm công tác tham mưu, tổng hợp) trong thời hạn 03 ngày (ngày làm việc) kể từ ngày kết thúc kỳ thống kê. Các phòng nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát cấp tỉnh có báo cáo công tác tháng ở Viện kiểm sát cấp tỉnh (đơn vị làm công tác tham mưu, tổng hợp) và các đơn vị nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong thời hạn 05 ngày (ngày làm việc) kể từ ngày kết thúc kỳ thống kê.
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, các đơn vị thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát quân sự Trung ương có báo cáo công tác tháng ở phòng Tổng hợp Văn phòng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong thời hạn 07 ngày (ngày làm việc) kể từ ngày kết thúc kỳ thống kê.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao có báo cáo công tác tháng trong thời hạn 15 ngày (ngày làm việc) kể từ ngày kết thúc kỳ thống kê ”.
Để xây dựng báo cáo có chất lư­ợng, ng­ười làm báo cáo cần chủ động tích lũy tài liệu, nghiên cứu kỹ, tập hợp đầy đủ tình hình và kết quả công tác của các bộ phận và của toàn đơn vị. Báo cáo tháng phải kết hợp số liệu thống kê và phân tích đánh giá tình hình xảy ra trong tháng, phân tích kết quả xử lý vụ việc, nhận xét về chất lượng công việc.
Thủ tr­ưởng hoặc ng­ười đư­ợc Thủ trư­ởng đơn vị uỷ quyền ký báo cáo phải kiểm tra kỹ, đảm bảo chính xác về số liệu, đúng đắn về nội dung, hình thức báo cáo.
III. Về Báo cáo sơ kết công tác 06 tháng đầu năm
1. Hình thức, thời điểm lấy số liệu Báo cáo.
Báo cáo sơ kết công tác 6 tháng đầu năm là báo cáo kiểm điểm việc thực hiện Chỉ thị của Viện trư­ởng VKSND tối cao trong 06 tháng đầu năm. Các đơn vị trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân cáccấp căn cứ vào nhiệm vụ chung và nhiệm vụ cụ thể nêu trong Chỉ thị, Kế hoạch, Chương trình công tác năm và các văn bản h­ướng dẫn thực hiện Chỉ thị để kiểm điểm, đánh giá kết quả của từng mặt công tác và đề ra nhiệm vụ trọng tâm 06 tháng cuối năm.
 Báo cáo sơ kết công tác 06tháng là báo cáo của Viện trưởng Viện kiểm sát cấp dưới gửi Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp, của Trưởng phòng nghiệp vụ ở Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh gửi Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc gửi Viện trưởngViện kiểm sát nhân dân tối cao thông qua Văn phòng.
Căn cứ vào yêu cầu sơ kết công tác 06 tháng đầu năm của ngành Kiểm sát nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định về thời điểm lấy báo cáo và thời hạn gửi báo cáo. Thông thường, thời điểm lấy và chốt số liệu báo cáo từ ngày 01/12 của năm trước đến ngày 31/ 5, năm làm báo cáo.
2. Nội dung và kết cấu Báo cáo sơ kết 06 tháng đầu năm của Viện kiểm sát nhân dân các cấp và Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Báo cáo này gồm có 4 phần:
 Phần I. Tình hình tội phạm
Trư­ớc khi nêu về kết quả công tác cần khái quát những nét cơ bản về tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật ở những lĩnh vực có liên quan đến việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân. Cần lư­u ý là chỉ đánh giá tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm thông qua các vụ án đã đư­ợc khởi tố, nên cần phải nêu rõ sự phối hợp giải quyết của Viện kiểm sát với cơ quan chức năng đối với các vụ việc phạm tội xảy ra và kết quả kiểm sát giải quyết vụ việc.
 Phần II.  Công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ.
a- Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư­ pháp trong lĩnh vực hình sự:
- Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự:
+ Nêu các biện pháp kiểm sát việc quản lý, xử lý tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố vụ án hình sự; tỷ lệ giải quyết trên tổng số tin báo thụ lý,các biện pháp hạn chế bỏ lọt tội phạm, chống oan, sai trong việc khởi tố, giải quyết vụ án.
+ Nêu và đánh giá tiến độ, chất lư­ợng giải quyết các vụ án hình sự. Đánh giá tỷ lệ tăng, giảm trong thực hiện các chỉ tiêu nghiệp vụ so với cùng kỳ năm trước. Chú ý các chỉ tiêu Viện kiểm sát khởi tố, yêu cầu khởi tố vụ án, việc phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, phê chuẩn bắt, tạm giữ, tạm giam, gia hạn tạm giữ, gia hạn tạm giam.
+ Chất l­ượng hồ sơ giải quyết vụ án, trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung, thực trạng, lý do và nguyên nhân; trách nhiệm của Kiểm sát viên, của Lãnh đạo Viện.
+ Đánh giá việc quản lý án đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; phân tích các lý do đình chỉ điều tra theo luật, nhất là đình chỉ điều tra do không phạm tội và trách nhiệm của Cơ quan điều tra, trách nhiệm của Viện kiểm sát.
+ Đánh giá kết quả phối hợp của Viện kiểm sát với Cơ quan Công an, Toà án trong việc xác định, xử lý các vụ án trọng điểm, phức tạp, số lượng các phiên tòa lưu động, phiên tòa rút gọn và phiên tòa rút kinh nghiệm trong việc nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên. Cần nêu tình hình chung và kết quả xử lý về các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia; các vụ án trong lĩnh vực kinh tế (trong đó chủ yếu các vụ án về tham nhũng); các vụ án trong lĩnh vực trật tự, an toàn xã hội; các vụ án về ma tuý; các vụ án xâm phạm hoạt động t­ư pháp. Phần này chú ý nêu rõ một số vụ án điển hình đã phát hiện, điều tra, truy tố trong thời điểm báo cáo; nêu tính chất mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội.
+ Nêu kết quả thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử hình sự sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm; nêu cụ thể các trư­ờng hợp Viện kiểm sát truy tố, Toà án tuyên không phạm tội ở các giai đoạn xét xử. Trong đó nêu các tr­ường hợp Toà tuyên không phạm tội bị tạm giam, tiếp theo Viện kiểm sát đã kháng nghị; Toà án xét xử chấp nhận, không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát; quan điểm xử lý tiếp theo của Viện kiểm sát (nếu có).
+ Kết quả kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và kết quả xét xử của Toà án, trong đó có các vụ, bị cáo do Viện kiểm sát kháng nghị, tỷ lệ phần trăm Tũa ỏn xử chấp nhận khỏng nghị trờn tổng số vụ Viện kiểm sỏt khỏng nghịTũa ỏn đó xột xử, quan điểm của Viện kiểm sát đối với các vụ, bị cáo Toà án không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát.
 + Các vi phạm của Cơ quan điều tra, Toà án trong quá trình giải quyết vụ án mà Viện kiểm sát phát hiện, kiến nghị, kháng nghị. L­ưu ý chỉ nêu những kiến nghị, kháng nghị bằng văn bản.
+ Việc tiếp nhận và kết quả giải quyết bồi thư­ờng cho ngư­ời bị oan theo Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước.
+ Về công tác của Cục điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Nêu kết quả xử lý tố giác, tin báo tội phạm, tình hình tội phạm trong lĩnh vực t­ư pháp; khởi tố, điều tra, đề nghị truy tố; tr­ường hợp đình chỉ điều tra cần nêu rõ lý do, biện pháp xử lý tiếp theo; ­ưu điểm, hạn chế trong công tác điều tra. Các kiến nghị với cơ quan hữu quan (nếu có).
- Công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam
Nêu kết quả kiểm sát, kháng nghị, kiến nghị vi phạm của cơ quan quản lý nhà tạm giữ, trại tạm giam, trại giam; tình trạng quá hạn tạm giữ, tạm giam thuộc trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Đối với các tr­ường hợp quá hạn thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát phải làm rõ nguyên nhân, trách nhiệm của tập thể, cá nhân.
- Các chỉ tiêu khác nêu trong Chỉ thị của Viện trư­ởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao thuộc lĩnh vực hình sự; đánh giá tiến độ triển khai và kết quả thực hiện nh­ư các khâu công tác khác.
b- Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình; hành chính, kinh doanh thư­ơng mại, lao động và các việc khác theo quy định của pháp luật
Tình hình tranh chấp về dân sự trong kỳ báo cáo, nổi lên vấn đề gì; các biện pháp Viện kiểm sát đã triển khai để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực này. Kết quả thực hiện chức năng kiểm sát do Luật sửa đổi bổ sung một số điều củaBộ luật tố tụng dân sự năm 2004, Luật tố tụng hành chính quy định. Kết quả kháng nghị của Viện kiểm sát theo trình tự sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm. Phân tích, đánh giá việc phát hiện và kiến nghị vi phạm của Toà án trong quá trình giải quyết vụ việc về dân sự, hành chính, tỷ lệ các vụ án dân sự, hành chính…do Viện kiểm sát kháng nghị được Tòa án chấp nhận ... Nêu các hạn chế, khó khăn, v­ướng mắc trong quá trình thực hiện chức năng kiểm sát; kiến nghị Viện kiểm sát cấp trên biện pháp khắc phục.
c- Công tác kiểm sát thi hành án hình sự, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù; công tác kiểm sát thi hành án dân sự
Nêu tình hình, kết quả công tác kiểm sát thi hành án trong lĩnh vực hình sự, dân sự; các biện pháp để nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác kiểm sát; kháng nghị, kiến nghị các cơ quan Công an, Toà án, Thi hành án khắc phục vi phạm trong việc thi hành các bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật.
d- Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động tư­ pháp của cơ quan t­ư pháp
Đối với đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát nên phân loại kết quả đã giải quyết khiếu nại riêng, tố cáo riêng, nhất là khiếu nại đề nghị giám đốc thẩm về hình sự, dân sự; đơn do các cơ quan Đảng, Nhà n­ước, Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội chuyển đến. Nêu kết quả kiểm sát việc giải quyết đơn về t­ư pháp của các cơ quan tư­ pháp. Nêu tỷ lệ phần trăm khiếu nại, tố cáo được giải quyết và các cuộc trực tiếp kiểm sát việc giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo về tư pháp; công tác kháng nghị, kiến nghị trong lĩnh vực này và phúc đáp kháng nghị, kiến nghị của các cơ quan có liên quan
Báo cáo sơ kết công tác 6 tháng phải căn cứ vào Hệ thống chỉ tiêu cơ bản đánh giá kết quả công tác nghiệp vụ trong ngành Kiểm sát nhân dân ban hành theo Quyết định 297 QĐ-VKSTC ngày 13/06/2012 để nêu cụ thể các chỉ tiêu đạt được.
 Phần III. Công tác xây dng ngành Kiểm sát nhân dân.
Phần này nêu về công tác tổ chức, cán bộ của đơn vị, của toàn Ngành (của Viện kiểm sát nhân dân tối cao); công tác quản lý,chỉ đạo, điều hành (gồm hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra, xử lý vi phạm nghiệp vụ, vi phạm pháp luật); công tác nghiên cứu khoa học, xây dựng và tuyên truyền pháp luật phục vụ chuyên môn; công tác hợp tác quốc tế, công tác hậu cần và các công tác khác của  Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát địa ph­ương.
Phần IV.Nhận xét, đánh giá và kiến nghị
Nhận xét, đánh giá ngắn gọn về những thuận lợi, khó khăn, những kết quả đã đạt được và những khuyết điểm, hạn chế. Nguyên nhân và biện pháp phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, hạn chế; những kiến nghị, đề xuất đối với cấp trên.
Phần V.Một số công tác trọng tâm cuối năm
Nêu nhiệm vụ trọng tâm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động t­ư pháp; các nhiệm vụ về xây dựng Ngành; công tác phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phư­ơng, của toàn Ngành; đề ra các giải pháp cụ thểtập trung giải quyết dứt điểm các nhiệm vụ đề ra trong năm.   
3. Nội dung và kết cấu Báo cáo sơ kết 6 tháng đầu năm của các đơn vị nghiệp vụ trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Báo cáo sơ kết 06 tháng đầu năm của các đơn vị nghiệp vụ trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng gồm 3 phần nh­ư báo cáo sơ kết 06 tháng đầu năm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; song có một số điểm khác biệt nh­ư sau:
Phần I. Kết quả công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ:
- Tr­ước khi nêu về kết quả công tác do đơn vị thực hiện, cần khái quát những nét cơ bản về tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật ở lĩnh vực có liên quan đến việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của đơn vị.
Ví dụ:
Báo cáo của Vụ 1 thì nêu khái quát những nét cơ bản về tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật ở lĩnh vực kinh tế và chức vụ thông qua những vụ án kinh tế và chức vụ đã đ­ược khởi tố.
Báo cáo của Vụ 2 thì nêu khái quát những nét cơ bản về tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật ở lĩnh vực an ninh thông qua những vụ án an ninh đã đư­ợc khởi tố.
Báo cáo của Cục 6 thì nêu khái quát những nét cơ bản về tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật ở lĩnh hoạt động t­ư pháp thông qua những vụ án xâm phạm hoạt động t­ư pháp đã đư­ợc khởi tố.
Báo cáo của các Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm thì nêu khái quát những nét cơ bản về tính chất và thủ đoạn phạm tội thông qua những vụ án đã xét xử phúc thẩm và những vi phạm trong qúa trình điều tra, truy tố, xét xử ở cấp sơ thẩm...
- Về kết quả công tác:
Trong Báo cáo sơ kết 06 tháng đầu năm của các đơn vị nghiệp vụ trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao có các nội dung sau:
+ Kết quả công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo khâu công tác do đơn vị phụ trách. Trong phần này cần nêu số liệu và đánh giá kết quả khâu công tác này của toàn Ngành và do đơn vị trực tiếp thực hiện.
+ Kết quả công tác tham mư­u cho Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao về khâu công tác do đơn vị phụ trách.
+ Kết quả h­ướng dẫn, chỉ đạo về nghiệp vụ đối với các Viện kiểm sát địa phương về khâu công tác do đơn vị phụ trách.
+ Kết quả thực hiện các nhiệm vụ do Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao giao cho đơn vị thực hiện.
Báo cáo sơ kết công tác 6 tháng phải căn cứ vào Hệ thống chỉ tiêu cơ bản đánh giá kết quả công tác nghiệp vụ trong ngành Kiểm sát nhân dân ban hành theo Quyết định 297 QĐ-VKSTC ngày 13/06/2012 để nêu cụ thể các chỉ tiêu đạt được.
Phần II. Công tác xây dựng ngành Kiểm sát nhân dân
Phần này nêu về công tác tổ chức, cán bộ của đơn vị, của toàn Ngành (của Viện kiểm sát nhân dân tối cao); công tác chỉ đạo, điều hành gồm h­ướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra, xử lý vi phạm nghiệp vụ, vi phạm pháp luật (nếu có); công tác nghiên cứu khoa học, xây dựng và tuyên truyền pháp luật phục vụ chuyên môn; công tác hậu cần và các công tác khác của đơn vị, Viện kiểm sát địa ph­ương. 
Phần III. Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác 6 tháng cuối năm
Nêu nhiệm vụ trọng tâm trong 6 tháng cuối năm của khâu công tác do đơn vị đảm nhiệm.
4. Trình tự và phư­ơng pháp xây dựng Báo cáo sơ kết 6 tháng đầu năm.
Đối với người được giao nhiệm vụ trực tiếp xây dựng báo cáo cần lưu ý các nội dung sau :
Nghiên cứu kỹ nội dung Chỉ thị công tác năm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kế hoạch hoặc Chương trình công tác năm của đơn vị mình để kiểm điểm, đánh giá những kết quả đã đạt được so với Chỉ thị, Kế hoạch, Chương trình công tác. Nghiên cứu các văn bản hướng dẫn xây dựng báo cáo sơ kết của Viện kiểm sát cấp trên và ý kiến chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp, hướng dẫn về hình thức, nội dung tại tài liệu này để xây dựng báo cáo.
Nghiên cứu kỹ báo cáo của các bộ phận, các đơn vị trực thuộc và của Viện kiểm sát cấp dưới để tổng hợp số liệu chính xác, so sánh đối chiếu với số liệu thống kê và khi cần thiết có thể trao đổi với các đơn vị và cá nhân có liên quan để có số liệu và nhận định, đánh giá, nhận xét chính xác.
Trên cơ sở báo cáo của các đơn vị, người viết báo cáo xây dựng đề cương khái quát và các phụ lục kèm theo (nếu thấy cần thiết hoặc theo yêu cầu của Lãnh đạo Viện)
IV. Báo cáo tổng kết công tác năm
1. Hình thức, thời điểm lấy số liệu Báo cáo.
Báo cáo công tác năm là báo cáo kiểm điểm việc thực hiện Chỉ thị của Viện trư­ởng VKSND tối cao trong năm. Các đơn vị trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân cáccấp căn cứ vào nhiệm vụ chung và nhiệm vụ cụ thể nêu trong Chỉ thị, Kế hoạch, Chương trình công tác năm để kiểm điểm, đánh giá kết quả của từng mặt công tác.
Thời điểm lấy số liệu thống kê để xây dựng Báo cáo tổng kết công tác năm tính từ ngày 01/12 của năm trước đến hết ngày cuối cùng tháng 11 của năm báo cáo. Về nội dung báo cáo và thời hạn gửi báo được quy định tại Điều 8, điểm 5, Quy chế 379.
2. Nội dung và kết cấu Báo cáo tổng kết công tác năm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và của các đơn vị nghiệp vụ trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
+ Căn cứ để tiến hành tổng kết công tác năm:
- Việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Ngành đ­ược quy định tại Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002; Bộ luật Tố tụng Hình sự; Bộ luật Tố tụng Dân sự và các luật, pháp lệnh khác có liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát.
- Việc thực hiện các Nghị quyết của Đảng, của Quốc hội có liên quan đến thực hiện nhiệm vụ của ngành; các chỉ tiêu đã nêu trong Chỉ thị của Viện tr­ưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về công tác năm; nội dung các kế hoạch, ch­ương trình công tác cụ thể do Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định. 
+ Về bố cục, nội dung, cơ cấu của báo cáo:
 Báo cáo tổng kết công tác năm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các đơn vị nghiệp vụ trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, về cơ bản có các phần nh­ư Báo cáo sơ kết công tác 6 tháng và gồm 3 nội dung chính:
- Công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ;
- Công tác xây dựng Ngành;
- Kết luận.
Khi viết báo cáo tổng kết năm cần l­ưu ý:
* Phần Công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ
Trong phần này nêu cả diễn biến tình hình tội phạm và kết quả các khâu công tác.
Về diễn biến tình hình tội phạm
Phải gắn công tác kiểm sát với việc phát hiện, xử lý tội phạm xảy ra trong thời gian báo cáo (1 năm). Đánh giá diễn biến tình hình tội phạm, nhất là những diễn biến mới so với cùng kỳ năm tr­ước.
 Về kết quả các khâu công tác:
Cần đánh giá kết quả các mặt công tác của toàn Ngành trong thời gian một năm. Cụ thể:
- Công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
- Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự
- Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự.
- Công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam
- Công tác kiểm sát thi hành án hình sự, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù
- Công tác kiểm sát thi hành án dân sự.
- Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh doanh th­ương mại, lao động và các việc khác theo quy định của pháp luật.
- Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động t­ư pháp của cơ quan t­ư pháp.
Trong từng khâu công tác phải làm rõ kết quả thực hiện các nhiệm vụ so với chỉ tiêu đề ra và so với cùng kỳ năm trư­ớc, trên cơ sở so sánh số liệu 12 tháng; những kết quả, ­ưu điểm; những bài học kinh nghiệm; những tồn tại, yếu kém và nguyên nhân. Báo cáo cần nêu những đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ, đơn vị không hoàn thành nhiệm vụ, làm rõ trách nhiệm của từng cấp kiểm sát nếu không hoàn thành kế hoạch, chư­ơng trình công tác đã đề ra. 
Nêu kết quả công tác phải gắn với nêu biện pháp tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ; những đổi mới, cải tiến phư­ơng pháp công tác.
Ng­ười viết báo cáo cần liên kết các các nội dung của báo cáo, hạn chế trình bày báo cáo theo kiểu liệt kê các nội dung.
Báo cáo tổng kết năm phải căn cứ vào Hệ thống chỉ tiêu cơ bản đánh giá kết quả công tác nghiệp vụ trong ngành Kiểm sát nhân dân ban hành theo Quyết định 297 QĐ-VKSTC ngày 13/06/2012 để nêu cụ thể các chỉ tiêu đạt được.
* Về công tác xây dựng Ngành:
Yêu cầu về tổng kết các nội dung trong công tác xây dựng Ngành, nh­ư Báo cáo công tác sơ kết 06 tháng đầu năm, gồm: Công tác tổ chức, cán bộ; Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành; Công tác nghiên cứu khoa học, xây dựng và tuyên truyền pháp luật và các công tác khác; Công tác hậu cần. 
Cần l­ưu ý là công tác xây dựng Ngành nêu trong báo cáo sơ kết 06 tháng đầu năm là những việc đang thực hiện và sẽ đ­ược thực hiện đến hết năm. Trong báo cáo tổng kết, tiến độ của công tác xây dựng Ngành cơ bản đã hoàn thành, nếu chư­a hoàn thành thì phải coi là chậm, trừ trư­ờng hợp kế hoạch đề ra cho nhiều năm. Trên các mặt công tác phải nêu kết quả, ­ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân tồn tại, trách nhiệm và biện pháp khắc phục.
* Nhận xét, kết luận:
Đây là phần kết thúc của báo cáo tổng kết năm, cần khái quát về kết quả công tác kiểm sát góp phần vào kết quả chung trong lĩnh vực bảo vệ an ninh, kinh tế, trật tự an toàn xã hội ở địa phư­ơng. Đồng thời cũng cần rút ra các bài học kinh nghiệm sau một năm thực hiện chức năng, nhiệm vụ, kế hoạch công tác đã đề ra; những nguyên nhân chủ quan, khách quan của những tồn tại, yếu kém trong các mặt công tác.
Chú ý nêu những bài học điển hình trong việc thực hiện các khâu công tác; nêu nguyên nhân chủ yếu, không nêu chung chung; phần kết luận phải viết ngắn gọn.
- Các đơn vị nghiệp vụ trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao:
Chịu trách nhiệm tổng hợp kết quả chung của khâu công tác trong toàn Ngành do đơn vị phụ trách. Các đơn vị nghiệp vụ trực thuộc Viện kiểm sát tối cao cũng phải tổng hợp đánh giá kết quả ở cả ba nội dung công tác (trực tiếp thực hiện; tham m­ưu, đề xuất và hư­ớng dẫn, chỉ đạo).
Cục thống kê tội phạm tập hợp số liệu thống kê trong toàn quốc phục vụ cho việc xây dựng báo cáo tổng kết công tác của toàn Ngành.
- Văn phòng Viện kiểm sát nhân dân tối cao:
Theo chỉ đạo trực tiếp của Viện tr­ưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, để chuẩn bị cho việc xây dựng báo cáo tổng kết toàn Ngành, Văn phòng giúp lãnh đạo Viện hư­ớng dẫn Viện kiểm sát cấp tỉnh, Viện kiểm sát Quân sự Trung ư­ơng, đơn vị trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao về các nội dung cần tổng hợp báo cáo; các phụ lục chuyên đề kèm theo báo cáo; thống kê số liệu toàn Ngành phục vụ việc xây dựng báo cáo.
Văn phòng Viện kiểm sát nhân dân tối cao tổng hợp tình hình vi phạm, tội phạm và kết quả công tác kiểm sát toàn Ngành dự thảo báo cáo trình Uỷ ban kiểm sát và Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
3. Nội dung và kết cấu Báo cáo tổng kết công tác năm của Viện kiểm sát nhân dân địa phương.
+ Căn cứ để tiến hành tổng kết công tác năm:
- Việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Ngành đ­ược quy định tại Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002; Bộ luật Tố tụng Hình sự; Bộ luật Tố tụng Dân sự và các luật, pháp lệnh khác có liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát.
- Việc thực hiện các Nghị quyết của Đảng, của Quốc hội có liên quan đến thực hiện nhiệm vụ của Ngành; các chỉ tiêu đã nêu trong Chỉ thị của Viện tr­ưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về công tác năm; nội dung các kế hoạch, ch­ương trình công tác cụ thể do Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định. 
+ Về bố cục, nội dung, cơ cấu của báo cáo:
 Báo cáo tổng kết công tác năm của Viện kiểm sát nhân dân địa phương, gồm 05 nội dung chính:
- Tình hình tội phạm;
- Công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ;
- Công tác xây dựng Ngành;
- Nhận xét, đánh giá và kiến nghị
- Một số công tác trọng tâm của năm sau
Khi viết báo cáo tổng kết năm cần l­ưu ý:
* Về tình hình tội phạm
Phải gắn công tác kiểm sát với việc phát hiện, xử lý tội phạm xảy ra trong thời gian báo cáo (1 năm). Đánh giá diễn biến tình hình tội phạm, nhất là những diễn biến mới so với cùng kỳ năm tr­ước.
* Phần Công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ
Về kết quả các khâu công tác:
Cần đánh giá kết quả các mặt công tác của Viện kiểm sát địa phươngtrong thời gian một năm. Lưu ý trong từng nội dung phải nêu số liệu và đánh giá kết quả khâu công tác này của toàn Ngành và do đơn vị trực tiếp thực hiện, đối chiếu với các chỉ tiêu trong Chỉ thị công tác năm của Viện trưởng VKSTC để kiểm điểm và so sánh với cùng kỳ của năm trước. Cụ thể:
- Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư­ pháp trong lĩnh vực hình sự;
- Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình; hành chính, kinh doanh th­ương mại, lao động và các việc khác theo quy định của pháp luật;
- Công tác kiểm sát thi hành án;
- Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động t­ư pháp của cơ quan t­ư pháp.
Trong từng khâu công tác phải làm rõ kết quả thực hiện các nhiệm vụ so với chỉ tiêu đề ra và so với cùng kỳ năm trư­ớc, trên cơ sở so sánh số liệu 12 tháng; những kết quả, ­ưu điểm; những bài học kinh nghiệm; những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân. Báo cáo cần nêu những đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ, đơn vị không hoàn thành nhiệm vụ (đối với báo cáo tổng kết của Viện kiểm sát cấp tỉnh), làm rõ trách nhiệm của từng cấp kiểm sát nếu không hoàn thành kế hoạch, chư­ơng trình công tác đã đề ra. 
Nêu kết quả công tác phải gắn với nêu biện pháp tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ; những đổi mới, cải tiến phư­ơng pháp công tác.
Ng­ười viết báo cáo cần liên kết các các nội dung của báo cáo, hạn chế trình bày báo cáo theo kiểu liệt kê các nội dung.
* Về công tác xây dựng Ngành:
Yêu cầu về tổng kết các nội dung trong công tác xây dựng Ngành, nh­ư Báo cáo công tác sơ kết 06 tháng đầu năm, gồm: Công tác tổ chức, cán bộ; Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành; Công tác nghiên cứu khoa học, xây dựng và tuyên truyền pháp luật và các công tác khác; Công tác hậu cần. 
Cần l­ưu ý công tác xây dựng Ngành được đề ra tại Kế hoạch công tác năm, khi xây dựng báo cáo tổng kết cơ bản đã hoàn thành, nếu chư­a hoàn thành thì phải tự đánh giálà chậm, trừ trư­ờng hợp kế hoạch đề ra cho nhiều năm. Trên các mặt công tác phải nêu kết quả, ­ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân tồn tại, trách nhiệm và biện pháp khắc phục.
* Nhận xét, đánh giá và kiến nghị:
Đây là phần kết thúc của báo cáo tổng kết năm, cần khái quát về kết quả công tác kiểm sát góp phần vào kết quả chung trong lĩnh vực bảo vệ an ninh, kinh tế, trật tự an toàn xã hội ở địa phư­ơng. Đồng thời cũng cần rút ra các bài học kinh nghiệm sau một năm thực hiện chức năng, nhiệm vụ, kế hoạch công tác đã đề ra; những nguyên nhân chủ quan, khách quan của kết quả đạt được và hạn chế, yếu kém trong các mặt công tác.
Chú ý nêu những kinh nghiệm điển hình trong việc thực hiện các khâu công tác; nêu nguyên nhân chủ yếu, không nêu chung chung; phần kết luận phải viết ngắn gọn.
* Một số công tác trọng tâm của năm tiếp theo
Dự kiến những nhiệm vụ lớn trong năm tiếp theo theo chỉ đạo định hướng của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên; công tác kiểm sát phục vụ nhiệm vụ chính trị của cấp ủy địa phương.
V. Báo cáo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương trước Hội đồng nhân dân
1.Căn cứ đểxây dựng báo cáo, mục đích yêu cầu của báo cáo
Điều 140 của Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định: “Viện trưởng các Viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân và trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân.
Tại Điều 9, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định: “Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp; chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân; trả lời chất vấn, kiến nghị, yêu cầu của Đại biểu Hội đồng nhân dân”.
Trên cơ sở của Hiến pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát xây dựng báo cáo định kỳ để báo cáo Hội đồng nhân dân, đảm bảo sự giám sát của Hội đồng nhân dân đối với Viện kiểm sát, tăng cường sự phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân với Hội đồng nhân dân cùng cấp trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị tại địa phương.
Báo cáo phải bám sát chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trên cơ sở quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác kiểm sát.
          2. Nội dung và kết cấu Báo cáo.
Báo cáo được chia làm 5 phần: Tình hình tội phạm ở địa phương trong kỳ báo cáo; hoạt động công tác kiểm sát; Công tác xây dựng Ngành; Một số nhiệm vụ trọng tâm cuối năm (nếu là kỳ báo cáo giữa năm) hoặc của năm sau (nếu là kỳ báo cáo cuối năm); Những kiến nghị, đề xuất (nếu có).
Phần 1: Tình hình tội phạm ở địa phương trong kỳ báo cáo: Nêu ngắn gọn diễn biến tình hình vi phạm, tội phạm ở địa phương có gì nổi cộm, đáng lưu ý (so sánh với cùng kỳ của năm trước), nêu vụ việc điển hình. Viện kiểm sát chỉ báo cáo trước HĐND tình hình vi phạm và tội phạm thông qua công tác giải quyết các vụ án do ngành Kiểm sát thụ lý. Những vụ việc xảy ra do các cơ quan hữu quan phản ánh, cung cấp tình hình nhưng chưa có sự tác động của hoạt động kiểm sát thì không báo cáo.
Phần 2: Hoạt động công tác kiểm sát
Đây là phần quan trọng nhất của báo cáo, thể hiện rõ chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát trong việc phối hợp đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật tại địa phương, bảo vệ Pháp chế xã hội chủ nghĩa. 
Phần này phải nêu được những chủ trương lớn của Ngành và VKS địa phương trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, phối hợp với các cơ quan hữu quan trong việc đấu tranh phòng, chống vi phạm, tội phạm, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Sau đó đánh giá đầy đủ kết quả (ưu điểm, khuyết điểm) các khâu công tác kiểm sát theo thứ tự các khâu công tác sau:
- Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự;
- Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân gia đình, hành chính, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật;
- Công tác kiểm sát thi hành án;
- Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động t­ư pháp của cơ quan t­ư pháp.
Cần lưu ý chỉ nêu những kết quả chính thể hiện chất lượng và hiệu quả công tác kiểm sát trong việc thực hiện các Bộ luật, luật liên quan đến các khâu công tác kiểm sát, không kiểm điểm sâu về nghiệp vụ kiểm sát, không báo cáo cụ thể các vụ việc mà Viện kiểm sát thụ lý, giải quyết, nhất là các nội dung chi tiết trong các vụ án hình sự, dân sự... Nói tóm lại, báo cáo phải ngắn gọn và phải cân nhắc các số liệu để đưa vào báo cáo.
Phần 3: Công tác xây dựng Ngành
Nêu ngắn gọn những nhiệm vụ chính đã triển khai thực hiện trong kỳ báo cáo như nhiệm vụ cải cách tư pháp; công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành...
Phần 4: Một số nhiệm vụ trọng tâm cuối năm (nếu là kỳ báo cáo giữa năm) hoặc của năm sau (nếu là kỳ báo cáo cuối năm)
Chỉ nêu những nhiệm vụ trọng tâm đã được đề ra trong Kế hoạch công tác (nếu là kỳ báo cáo giữa năm) hoặc dự kiến những công việc quan trọng có tính định hướng của năm sau (nếu là kỳ báo cáo cuối năm), gắn với việc phục vụ nhiệm vụ chính trị tại địa phương.
Phần 5: Những kiến nghị, đề xuất (nếu có)
Tập trung nêu những đề xuất, kiến nghị với HĐND cùng cấp nhằm tăng cường pháp chế XHCN; những kiến nghị về quan hệ phối hợp giữa VKS với HĐND, UBND, Công an, Tòa án, MTTQ và các tổ chức, đoàn thể khác.
VI. Xây dựng kế hoạch, chương trình công tác năm.
Tại Điều 19 của Quy chế 379 quy định việcxây dựng kế hoạch, chương trình công tác của các đơn vị trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát Quân sự Trung ương, Viện kiểm sát quân sự cấp thứ hai và Viện kiểm sát nhân dân các cấp.
1. Căn cứ để xây dựng kế hoạch, chương trình công tác
- Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân do Hiến pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân quy định. Đây là vấn đề cơ bản để xác định nội dung kế hoạch, chương trình công tác ở các đơn vị, các cấp Kiểm sát. Nếu không nắm vững các quy định của pháp luật đối với Viện kiểm sát nhân dân thì sẽ không xác định được mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ sát đúng chức năng, nhiệm vụ của Ngành.
- Căn cứ vào Chỉ thị, kế hoạch, chương trình công tác của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Khi xây dựng kế hoạch, chương trình công tác, các đơn vị trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân, Viện kiểm sát Quân sự các cấp phải căn cứ và bám sát vào mục tiêu, nhiệm vụ được đề ra trong Chỉ thị, chương trình, kế hoạch công tác của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao vì theo quy định của pháp luật hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất dưới sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Căn cứ vào tình hình thực tiễn ở địa phương và khả năng tổ chức, bộ máy, biên chế, phương tiện vật chất của đơn vị. Bên cạnh các căn cứ trên, đây là một căn cứ rất quan trọng đảm bảo tính khả thi trong khi xây dựng và thực hiện kế hoạch, chương trình công tác. Kế hoạch và chương trình công tác của Viện kiểm sát các cấp phải căn cứ vào Nghị quyết, chủ trương của cấp ủy Đảng ở địa phương cùng cấp và diễn biến tình hình vi phạm, tội phạm trên địa bàn cũng như các yếu tố khác như tổ chức, bộ máy, biên chế, phương tiện vật chất hiện có để đề ra mục tiêu, nhiệm vụ đối với đơn vị mình, đảm bảo khả năng hoàn thành kế hoạch, chương trình công tác đã đề ra.
      2. Nội dung của Kế hoạch công tác năm: gồm có 4 phần
- Phần mở đầu: Nêu các nội dung chính sau
+ Tổng hợp, khái quát kết quả công tác năm trước;
+ Dự báo tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật của năm xây dựng và thực hiện kế hoạch;
+ Những thuận lợi, khó khăn trong quá trình thực hiện kế hoạch;
+ Những chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước trong năm xây dựng và thực hiện kế hoạch có tác động trực tiếp đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân.
+ Những chủ trương, định hướng về thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong năm thực hiện kế hoạch.
- Phần thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Ngành
+ Xác định nhiệm vụ chung và các nhiệm vụ cụ thể trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Ngành ở từng cấp Kiểm sát ngay từ đầu năm kế hoạch. Nhiệm vụ chung là những nhiệm vụ tổng quát, xuyên suốt toàn bộ hoạt động của Viện kiểm sát trong năm kế hoạch, là định hướng cho các khâu công tác để tổ chức thực hiện. Nhiệm vụ cụ thể của từng cấp Kiểm sát do Viện kiểm sát cấp làm kế hoạch xác định nhưng phải đảm bảo phù hợp với nhiệm vụ do Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề ra và sát đúng với chức năng, nhiệm vụ của Ngành do luật định.
+Nêu cụ thể trong kế hoạch các nhiệm vụ thực hiện từng khâu công tác, cần chú ý xác định những nhiệm vụ chủ yếu trong từng khâu công tác, các công tác trọng tâm, trọng điểm, các chỉ tiêu cụ thể; xác định đơn vị chỉ đạo, người theo dõi, chỉ đạo; đơn vị thực hiện, người thực hiện; xác định thời gian thực hiện và thời điểm hoàn thành từng công việc.
- Phần công tác xây dựng Ngành
 Nêu các nhiệm vụ và biện pháp để thực hiện các công tác sau:
+ Công tác tổ chức cán bộ, gồm: kiện toàn tổ chức, bộ máy; công tác quản lý, giáo dục , rèn luyện cán bộ; công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và phát triển nguồn nhân lực; công tác quy hoạch, bổ nhiệm, đề bạt cán bộ.
+ Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành cần nêu các nhiệm vụ chủ yếu và các chỉ tiêu về các mặt: Công tác xây dựng và triển khai nhiệm vụ trọng tâm; công tác quản lý, chỉ đạo nghiệp vụ; công tác kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ; việc thực hiện chế độ thông tin, báo cáo, quản lý công tác.
+ Công tác nghiên cứu khoa học cần nêu được các nhiệm vụ chủ yếu và các chỉ tiêu về các mặt: Các nhiệm vụ chủ yếu về nghiên cứu khoa học; công tác nghiên cứu, tham gia xây dựng pháp luật; triển khai thực hiện các đề tài khoa học và chuyên đề nghiệp vụ.
+ Công tác hợp tác quốc tế cần nêu được các nhiệm vụ chủ yếu và các chỉ tiêu về các mặt: tổ chức các quan hệ quốc tế song phương và đa phương; thực hiện nhiệm vụ tương trợ tư pháp về hình sự; triển khai thực hiện các Dự án quốc tế.
+ Công tác thông tin, báo chí, tuyên truyền cần nêu được các nhiệm vụ chủ yếu và các chỉ tiêu về các mặt: các nhiệm vụ cụ thể về tuyên truyền kết quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân; Những vấn đề các cơ quan thông tin, tuyên truyền cần chú trọng trong năm kế hoạch (Ví dụ: những chủ trương mới của Đảng và Nhà nước về ngành Kiểm sát, những quy định mới của pháp luật về ngành Kiểm sát, những tấm gương kiểm sát viên tiêu biểu v.v...).
+ Công tác tài chính và đảm bảo hậu cần cần nêu được các nhiệm vụ chủ yếu và các chỉ tiêu về các mặt: công tác tài chính kế toán; công tác đầu tư xây dựng cơ bản; việc đảm bảo hậu cần, phương tiện, cơ sở vật chất; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
- Biện pháp tổ chức thực hiện
Phần này quy định cụ thể nhiệm vụ của từng cấp Kiểm sát, từng đơn vị nghiệp vụ trong triển khai, tổ chức thực hiện kế hoạch, dự kiến thời gian báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch để phục vụ cho việc sơ kết, tổng kết công tác và phân công đơn vị, người theo dõi việc thực hiện kế hoạch.
3. Nội dung của Chương trình công tác
Chương trình công tác (nói chung) là sự cụ thể hóa việc thực hiện kế hoạch công tác, vì vậy phải căn cứ vào nhiệm vụ đề ra trong kế hoạch để xây dựng chương trình công tác cho phù hợp, phải nêu được toàn bộ các công việc phải làm trong thời gian của chương trình, được sắp xếp theo thứ tự thời gian.
Trong mỗi nhiệm vụ hoặc công việc đề ra trong chương trình công tác phải nêu đầy đủ các mặt: nội dung công tác; thời gian triển khai, thời gian hoàn thành công việc; người chỉ đạo đơn vị, người thực hiện; biện pháp phối hợp thực hiện; người theo dõi, tổng hợp kết quả báo cáo.
 4. Trình tự, phương pháp xây dựng kế hoạch, chương trình công tác
4.1. Bước chuẩn bị
Người được phân công xây dựng kế hoạch, chương trình công tác phải chuẩn bị các việc cụ thể sau:
- Xác định mục đích của việc xây dựng kế hoạch, chương trình công tác;
- Nắm chắc các yêu cầu và căn cứ để xây dựng kế hoạch, chương trình công tác;
- Xin ý kiến chỉ đạo của Viện trưởng, thủ trưởng đơn vị về nội dung, biện pháp lớn cần nêu trong kế hoạch và chương trình công tác;
- Trao đổi về những dự kiến trước với các đơn vị nghiệp vụ và Viện kiểm sát cấp dưới, xem xét việc đề xuất của các đơn vị này về nội dung kế hoạch, chương trình công tác;
- Chuẩn bị các tài liệu, số liệu cần thiết cho việc xây dựng kế hoạch và chương trình công tác.
4.2. Dự thảo kế hoạch và chương trình công tác
Sau khi đã hoàn tất công tác chuẩn bị, người dự thảo phải tiến hành các công việc:
- Xây dựng đề cương theo nội dung nêu ở các phần trên, trình Lãnh đạo Viện, Thủ trưởng đơn vị cho ý kiến chỉ đạo, bổ sung đề có đề cương chính thức;
- Bám sát đề cương chính thức để viết dự thảo kế hoạch, chương trình;
- Thông qua tập thể Lãnh đạo Viện và Ủy ban kiểm sát (đối với Kế hoạch công tác năm hoặc một số kế hoạch quan trọng khác) hoặc tập thể đơn vị (đối với các đơn vị nghiệp vụ) để thảo luận có bản dự thảo kế hoạch công tác hoặc chương trình công tác hoàn chỉnh.
4.3. Duyệt kế hoạch và chương trình công tác
Thông thường dự thảo kế hoạch và chương trình công tác được đưa ra thảo luận tại hội nghị tổng kết của Viện kiểm sát các cấp và các đơn vị, trên cơ sở các ý kiến thảo luận tại hội nghị, đơn vị và người xây dựng kế hoạch, chương trình có trách nhiệm tổng hợp, bổ sung hoàn chỉnh, trình tập thể lãnh đạo Viện, Ủy ban kiểm sát duyệt chính thức và ban hành. Trong trường hợp đã xác định cụ thể, chính xác nội dung của kế hoạch, chương trình thì Lãnh đạo Viện quyết định ban hành chính thức để triển khai thực hiện mà không cần đưa ra hội nghị của Viện kiểm sát các cấp hoặc các đơn vị nữa.
Về thời gian ban hành kế hoạch, chương trình công tác năm; việc gửi kế hoạch, chương trình công tác và duyệt, kiểm tra việc triển khai thực hiện kế hoạch, chương trình được quy định tại Quy chế về thông tin báo cáo và quản lý công tác trong ngành Kiểm sát nhân dân hiện hành. Đối với các chương trình, kế hoạch công tác khác thì tùy theo yêu cầu của cơ quan, đơn vị cấp trên hoặc cơ quan, đơn vị có liên quan mà xác định thời gian hoàn thành việc xây dựng sao cho đảm bảo.   
                                                                                VĂN PHÒNG
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
                                                           
TÌM KIẾM