Trên cơ sở quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, bài viết chỉ ra một số hạn chế, tồn tại và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người, quyền công dân qua công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự.
1. Bảo vệ quyền con người, quyền công dân qua công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự của Viện kiểm sát nhân dân
- Bảo vệ quyền con người, quyền công dân qua hoạt động kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc thụ lý vụ án dân sự:
Để bảo đảm quyền khởi kiện của cá nhân, tổ chức, khi nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu do Tòa án gửi thì Kiểm sát viên được phân công phải kiểm sát căn cứ trả lại đơn theo Điều 194 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015. Trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu không đúng quy định của pháp luật thì Kiểm sát viên báo cáo với Viện trưởng Viện kiểm sát để thực hiện quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án đã trả lại đơn. Tòa án phải xem xét, giải quyết kiến nghị đó thông qua phiên họp có sự tham gia của Viện kiểm sát cùng cấp. Nếu Chánh án Tòa án cùng cấp ra quyết định giữ nguyên việc trả lại đơn, mà Viện kiểm sát cùng cấp không đồng ý thì có quyền kiến nghị Chánh án Tòa án cấp trên trực tiếp xem xét, giải quyết. Do tính chất của việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu là tước bỏ quyền khởi kiện vụ án, quyền yêu cầu giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án, nên BLTTDS năm 2015 quy định Viện kiểm sát có quyền kiến nghị đến Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao hoặc Chánh án Tòa án nhân dân tối cao theo các khoản 5, 6 và 7 Điều 194 BLTTDS năm 2015.
Đối với việc thụ lý vụ án dân sự, hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát góp phần bảo đảm công tác thụ lý của Tòa án đúng quy định của pháp luật, là cơ sở phát sinh các quyền và nghĩa vụ tố tụng của cá nhân, tổ chức. Do đó, khi nhận được văn bản thông báo thụ lý do Tòa án gửi, Kiểm sát viên tiến hành các hoạt động kiểm sát tính hợp pháp của việc khởi kiện, yêu cầu; xác định vụ án dân sự có thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án đã thụ lý không; nội dung và hình thức của văn bản thông báo thụ lý, thời hạn gửi thông báo cho Viện kiểm sát có đúng quy định hay không... Các vi phạm của Tòa án trong việc thụ lý vụ án dân sự (như thụ lý khi người khởi kiện, người yêu cầu không có quyền khởi kiện, yêu cầu, thụ lý sai thẩm quyền...) nếu không được phát hiện kịp thời sẽ dẫn đến nguy cơ bản án bị hủy và vụ án bị đình chỉ để xét xử sơ thẩm lại.
- Bảo vệ quyền con người, quyền công dân qua việc Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) thực hiện quyền yêu cầu Tòa án hoặc tự mình xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ:
Quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự, nếu nhận thấy tài liệu, chứng cứ đã có trong hồ sơ chưa đầy đủ để bảo đảm giải quyết đúng đắn tranh chấp, yêu cầu, hoặc tại phiên tòa phát sinh tài liệu, chứng cứ mới, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ bổ sung và phải nêu rõ vấn đề cần xác minh, tài liệu cần thu thập bổ sung. Tòa án có thể thực hiện yêu cầu của Viện kiểm sát nếu thấy cần thiết. Trong trường hợp Tòa án không thực hiện mà vẫn ra bản án, quyết định, nếu Kiểm sát viên không đồng ý thì khi phát biểu quan điểm tại phiên tòa cần nêu rõ: Do không có đầy đủ tài liệu, chứng cứ cần thiết, nên không đủ cơ sở đưa ra quan điểm về việc giải quyết vụ án dân sự; kết thúc phiên tòa, Kiểm sát viên phải báo cáo ngay lãnh đạo Viện kiểm sát để quyết định thực hiện quyền xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ chuẩn bị cho việc kháng nghị. Trong quá trình giải quyết đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm của Viện kiểm sát (gồm Viện trưởng VKSND tối cao, Viện trưởng VKSND cấp cao) có quyền yêu cầu người có đơn bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc tự mình kiểm tra, xác minh tài liệu, chứng cứ cần thiết (khoản 2 Điều 330 BLTTDS năm 2015). Quyền yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của Viện kiểm sát có ý nghĩa rất quan trọng, bảo đảm việc giải quyết vụ án dân sự chặt chẽ, đúng đắn, khả thi.
- Bảo vệ quyền con người, quyền công dân qua hoạt động tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ án dân sự:
Điều 21 BLTTDS năm 2015 quy định cụ thể các trường hợp VKSND tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự, cụ thể là: Viện kiểm sát tham gia các phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc trường hợp Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng. Trường hợp Kiểm sát viên được Viện trưởng phân công tham gia phiên tòa, phiên họp sơ thẩm hoặc phúc thẩm mà vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử, không hoãn phiên tòa, trừ trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm. Quy định này nhằm bảo đảm việc xét xử, giải quyết vụ việc dân sự được nhanh chóng, kịp thời, đề cao trách nhiệm của Kiểm sát viên và Viện kiểm sát. Tuy nhiên, trên thực tế, quy định này chưa bảo vệ tốt nhất quyền lợi của người tham gia tố tụng, bởi thiếu vắng chủ thể giám sát hoạt động của Hội đồng xét xử.
- Bảo vệ quyền con người, quyền công dân qua thực hiện quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án:
Khi Viện kiểm sát ban hành quyết định kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, kiến nghị theo thủ tục đặc biệt thì Toà án có thẩm quyền phải mở phiên tòa, phiên họp để xem xét kháng nghị, kiến nghị của Viện kiểm sát. Viện kiểm sát kháng nghị để vụ việc dân sự được xem xét lại ở cấp cao hơn, thận trọng hơn, khẳng định vai trò của Viện kiểm sát trong việc bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Kháng nghị là quyền năng tác động mạnh mẽ nhất đến kết quả xét xử của Tòa án, có thể làm thay đổi kết quả xét xử; thể hiện tính hiệu lực, hiệu quả nhất trong kiểm soát quyền lực tư pháp do Tòa án thực hiện; qua đó góp phần bảo vệ toàn diện, triệt để các quyền nhân thân, quyền tài sản, quyền tố tụng của đương sự trong vụ việc dân sự.
- Bảo vệ quyền con người, quyền công dân qua thực hiện quyền kiến nghị Tòa án, cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền phòng ngừa, khắc phục vi phạm pháp luật:
Viện kiểm sát có quyền kiến nghị đối với một số quyết định do Toà án ban hành trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự; Tòa án phải mở thủ tục xem xét kiến nghị của Viện kiểm sát và ban hành quyết định giải quyết kiến nghị. Viện kiểm sát cũng có quyền kiến nghị Tòa án, cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền phòng ngừa, khắc phục vi phạm pháp luật được phát hiện qua công tác kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự. Quyền kiến nghị này được thực hiện theo khoản 2 Điều 5 Luật tổ chức VKSND năm 2014, đối với các vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng trong hành vi, bản án, quyết định của Tòa án, người tiến hành tố tụng của Tòa án; hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền có liên quan đến vụ việc dân sự Tòa án đang giải quyết mà không thuộc trường hợp phải kháng nghị theo quy định của BLTTDS năm 2015. Việc thực hiện quyền kiến nghị nhằm mục đích yêu cầu cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền khắc phục vi phạm; xử lý nghiêm minh và áp dụng các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật trong hoạt động quản lý của cơ quan, tổ chức hữu quan. Việc thực hiện quyền kiến nghị qua công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự không chỉ có ý nghĩa đối với vụ án cụ thể, mà còn khắc phục tình trạng thiếu sót, vi phạm kéo dài, lặp đi lặp lại hoặc có tính chất phổ biến ở nhiều ngành, nhiều cấp; từ đó, góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
2. Một số bất cập trong quy định của pháp luật
Một là, BLTTDS năm 2015 và văn bản hướng dẫn thi hành về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND chưa bảo đảm cho VKSND thực hiện tốt các hoạt động kiểm sát, quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị. Hoạt động kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự của VKSND chủ yếu bắt đầu được thực hiện khi nhận được hồ sơ vụ án từ Tòa án chuyển sang; nếu Tòa án chậm chuyển hồ sơ thì Viện kiểm sát gặp khó khăn khi thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị nhằm bảo đảm quyền của người khởi kiện. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 chỉ quy định một loại thời hạn nghiên cứu hồ sơ, thời hạn kháng nghị phúc thẩm, trong khi các vụ việc có quy mô, tính chất khác nhau; không quy định trách nhiệm của Tòa án trong việc gửi hồ sơ, tài liệu để Viện kiểm sát thực hiện kiểm sát một số quyết định, văn bản tố tụng (như văn bản thông báo trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án...); điểm a khoản 3 Điều 5 Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 quy định việc phối hợp giữa VKSND và Tòa án nhân dân trong việc thi hành một số quy định của BLTTDS (Thông tư số 02/2016) quy định Tòa án được ưu tiên nhận hồ sơ trước trong việc xem xét, giải quyết đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm là không phù hợp.
Hai là, Điều 299 BLTTDS năm 2015 quy định Hội đồng xét xử phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý việc nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm hay không và tùy từng trường hợp để giải quyết là không phù hợp với nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự. Bởi lẽ, đương sự có quyền tự định đoạt việc khởi kiện, tham gia tố tụng bảo vệ quyền lợi của mình, nên việc đương sự rút đơn khởi kiện ở bất kì giai đoạn nào cũng là hình thức thực hiện quyền tự định đoạt.
Ba là, BLTTDS năm 2015 mới chỉ quy định quyền yêu cầu phản tố của bị đơn và quyền yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (khoản 4 Điều 72, các điều 200 và 201), mà chưa quy định cụ thể thời điểm thực hiện các quyền này. Việc quy định không rõ ràng thời điểm bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đưa ra yêu cầu độc lập gây khó khăn cho việc thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự khi đưa ra các loại yêu cầu này. Trên thực tế, có Tòa án chấp nhận việc đưa ra yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập tại phiên tòa, một số Tòa án lại không chấp nhận.
Bốn là, quy định về thành phần tham gia phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị chưa tạo thuận lợi cho Kiểm sát viên. Theo khoản 3 Điều 194 BLTTDS năm 2015, phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị phải có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp. Tuy nhiên, theo khoản 1 Điều 26 Thông tư liên tịch số 02/2016 về việc Viện kiểm sát tham gia phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị về trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu nếu: “Trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì Thẩm phán vẫn tiến hành phiên họp, trừ trường hợp Viện kiểm sát kiến nghị”. Quy định này cũng được áp dụng với các phiên họp, phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm mà không có kháng nghị của Viện kiểm sát. Khoản 1 Điều 232 BLTTDS năm 2015 quy định: “Kiểm sát viên được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phân công có nhiệm vụ tham gia phiên tòa, nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử, không hoãn phiên tòa”. Đồng thời, khoản 1 Điều 296 BLTTDS năm 2015 quy định: “Kiểm sát viên được phân công tham gia phiên tòa phúc thẩm vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử, không hoãn phiên tòa, trừ trường hợp Viện kiểm sát có kháng nghị phúc thẩm”. Như vậy, các quy định trên chưa tạo thuận lợi cho Kiểm sát viên trong việc kiểm sát diễn biến phiên họp, phiên tòa, chưa phát huy hết vai trò của Viện kiểm sát, trong bảo vệ quyền con người, quyền công dân của người tham gia tố tụng, đặc biệt là trong trường hợp do hoàn cảnh, điều kiện khách quan mà Kiểm sát viên không thể tham gia phiên họp, phiên tòa.
3. Đề xuất, kiến nghị
Thứ nhất, cần sửa đổi, bổ sung BLTTDS năm 2015 theo hướng tăng cường trách nhiệm của Tòa án trong việc xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ khi đương sự có yêu cầu, đặc biệt là trong các vụ việc dân sự có liên quan đến đất đai; trường hợp không xác minh, thu thập được thì phải nêu rõ lý do; trường hợp không thể xác minh, thu thập được thì phải thông báo cho đương sự đã yêu cầu biết; nếu đương sự thực hiện quyền yêu cầu chưa đúng quy định của pháp luật, Tòa án phải hướng dẫn đương sự thực hiện đúng quy định.
Thứ hai, cần sửa đổi, bổ sung BLTTDS năm 2015 theo hướng bảo đảm cho VKSND thực hiện tốt các hoạt động kiểm sát, các quyền năng pháp lý (quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị): Bổ sung quy định Tòa án có trách nhiệm thông báo cho Viện kiểm sát về việc nhận đơn khởi kiện để Viện kiểm sát thực hiện kiểm sát quyền khởi kiện của cá nhân, tổ chức và việc Tòa án bảo đảm quyền này; bổ sung quy định về gia hạn thời hạn nghiên cứu hồ sơ, thời hạn kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án đã xét xử sơ thẩm trong trường hợp vụ việc phức tạp; bổ sung quy định việc Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ bằng biện pháp xem xét, thẩm định tại chỗ bắt buộc phải có sự tham gia của Kiểm sát viên; bổ sung quy định về một số loại vụ việc phải có sự có mặt của Kiểm sát viên tại phiên tòa, phiên họp (những loại vụ việc có tỷ lệ hủy, sửa bản án cao hiện nay); bổ sung quy định Tòa án phải gửi hồ sơ, tài liệu để Viện kiểm sát kiểm sát một số quyết định, văn bản tố tụng (như văn bản thông báo trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án) khi Viện kiểm sát có yêu cầu.
Thứ ba, sửa đổi, bổ sung điểm a khoản 3 Điều 5 Thông tư liên tịch số 02/2016 theo hướng: Tòa án hoặc Viện kiểm sát, cơ quan nào có văn bản yêu cầu chuyển hồ sơ vụ việc dân sự để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm trước thì cơ quan đó được ưu tiên nhận hồ sơ trước (trừ trường hợp có sự thống nhất khác giữa các cơ quan) để bảo đảm tính khách quan, công bằng; ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể, chi tiết hoạt động kiểm sát việc công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án.
Thứ tư, để bảo đảm quyền tự định đoạt của nguyên đơn trong tố tụng dân sự, cần bỏ quy định nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm phải được sự đồng ý của bị đơn theo điểm a khoản 1 Điều 299 BLTTDS năm 2015. Theo đó, nếu bị đơn thấy việc nguyên đơn có đơn khởi kiện rồi sau đó rút mà gây thiệt hại cho họ về danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản thì có quyền yêu cầu nguyên đơn bồi thường thiệt hại. Cụ thể là:
“Điều 299. Nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm
Trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Trong trường hợp này, các đương sự vẫn phải chịu án phí sơ thẩm theo quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và phải chịu một nửa án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật. Bị đơn có quyền yêu cầu nguyên đơn bồi thường thiệt hại nếu việc khởi kiện rồi sau đó rút đơn khởi kiện gây thiệt hại cho bị đơn về danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản”.
Thứ năm, cần bổ sung thời điểm bị đơn thực hiện phản tố trước phiên tòa; quy định nguyên đơn có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện, bị đơn có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu của mình ở mọi giai đoạn tố tụng (các điều 227, 243, 244 BLTTDS năm 2015) được Tòa án chấp nhận nếu không phải hoãn phiên tòa.
Thứ sáu, cần quy định bắt buộc sự có mặt của Kiểm sát viên tham gia phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị theo khoản 3 Điều 194 BLTTDS năm 2015; bắt buộc có mặt Kiểm sát viên tại phiên họp, phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm trong cả trường hợp không có kháng nghị của Viện kiểm sát, nhằm bảo đảm sự tuân thủ pháp luật của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, bảo vệ quyền con người, quyền công dân của đương sự. Theo đó, cần sửa đổi khoản 1 Điều 232 BLTTDS năm 2015 theo hướng: “Kiểm sát viên được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phân công có nhiệm vụ tham gia phiên tòa, nếu vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa”; sửa đổi khoản 1 Điều 296 BLTTDS năm 2015 theo hướng: “Kiểm sát viên được phân công tham gia phiên tòa phúc thẩm vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa, kể cả trường hợp Viện kiểm sát không có kháng nghị phúc thẩm”.