Thông qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục phúc thẩm, VKSND cấp cao tại Đà Nẵng nhận thấy việc giải quyết vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn, ông Nguyễn Huy T và bà Võ Thị S với bị đơn ông Hoàng Xuân M và bà Lê Thị H đã được xét xử tại Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2021/DS-ST ngày 15/6/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh GL có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm, cụ thể như sau:
I. Nội dung vụ án
Năm 1995, gia đình ông Nguyễn Huy T và gia đình ông Hoàng Xuân M cùng được Liên hiệp lâm công nghiệp KHN (nay là Công ty Cổ phần KHN) bán thanh lý một dãy nhà tại tổ dân phố 8, thị trấn G, huyện K, tỉnh GL. Dãy nhà có 03 phòng gồm (phòng chứa máy làm đá lạnh, phòng ăn và phòng bếp). Ông Hoàng Xuân M được mua thanh lý phòng chứa máy làm đá lạnh và 1/2 nhà ăn. Ông Nguyễn Huy T được thanh lý 1/2 nhà ăn và phòng bếp. Phía sau dãy nhà có một khu vườn (hiện các bên đang tranh chấp), diện tích đo đạc thực tế là 231,8m2.
Năm 1997, Liên hiệp KHN có Báo cáo số 45/BC-TCHC ngày 01/4/1997 về việc bàn giao toàn bộ diện tích đất và danh sách tên cán bộ, công nhân viên đã mua nhà thanh lý cho UBND huyện K quản lý. Theo đó, gia đình ông T và gia đình ông M cùng đứng tên chung trong lô đất số 11.
Năm 2003, ông Nguyễn Huy T được cấp GCNQSDĐ đối với phần đất được mua thanh lý, diện tích 171m2, thuộc thửa đất số 24, tờ bản đồ số 39. Năm 2004, ông Hoàng Xuân M và bà Lê Thị H được cấp GCNQSDĐ đối với phần đất thanh lý, diện tích 143,7m2, thuộc thửa đất số 30, tờ bản đồ số 39. Riêng diện tích đất là khu vườn chung chưa được cấp GCNQSDĐ.
Năm 2012, ông T chuyển nhượng diện tích đất 171m2, thuộc thửa đất số 24, tờ bản đồ số 39 cho gia đình ông Nguyễn Chí D, bà Lương Thị G.
Ngày 13/8/2014, UBND huyện K có Quyết định số 1174/QĐ-UBND về việc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chi tiết xây dựng trường tiểu học LTT và khu dân cư tổ dân phố 7, thị trấn K, huyện K, tỉnh GL. Diện tích đất tranh chấp thuộc khu quy hoạch nêu trên.
Ngày 03/9/2015, ông M và bà H được UBND huyện K cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất tranh chấp, diện tích 186m2, thuộc thửa đất số 22, tờ bản đồ: Khu quy hoạch dân cư TDP 7.
Ông Nguyễn Huy T và bà Võ Thị S khởi kiện yêu cầu gia đình ông Hoàng Xuân M và bà Lê Thị H trả lại phần đất diện tích 186m2 và đề nghị hủy GCNQSDĐ số CA 859932 ngày 03/9/2015 cấp cho ông M và bà H vì cho rằng diện tích đất này do Công ty Cổ phần KHN đã giao cho Ông. Bị đơn ông Hoàng Xuân M và bà Lê Thị H không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông T, vì lô đất này được Liên hiệp KHN cấp chung cho gia đình Ông và gia đình ông T nên gia đình Ông được hưởng quyền lợi giống như ông T.
II. Quá trình giải quyết vụ án
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2021/DS-ST ngày 15/6/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh GL, quyết định:
“Chấp nhận đơn khởi kiện của ông Nguyễn Huy T bà Võ Thị S;
- Buộc ông Hoàng Xuân M, bà Lê Thị H trả 186m2 (thực tế 231,8m2), đất tại thửa đất số 22, tổ dân phố 7, thị trấn K, huyện K, tỉnh GL cho ông Nguyễn Huy T bà Võ Thị S, có tứ cận như sau (phía Đông giáp đường bê tông, chiều dài 8,3m; phía Tây giáp đất ông D, bà G, chiều dài 7,5m; phía Nam giáp đất ông D, bà G, chiều dài 29,66m; phía Bắc giáp đất ông Z dài 29,15m).
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CA 859932, thửa đất số 22 do Ủy ban nhân dân huyện K cấp ngày 03/9/2015 cho ông Hoàng Xuân M, bà Lê Thị H.
- Ông Hoàng Xuân M, bà Lê Thị H có quyền liên hệ với các cơ quan có liên quan để được nhận lại khoản tiền đã nộp khi cấp đất nêu trên”.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và chi phí tố tụng theo quy định.
Kháng cáo:
Ngày 25/6/2021, bị đơn ông Hoàng Xuân M và bà Lê Thị H kháng cáo, đề nghị bác đơn khởi kiện của nguyên đơn.
Ngày 28/6/2021, Viện trưởng VKSND tỉnh GL ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 02/QĐKNPT-VKS-DS đề nghị sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện VKSND cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm, chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 02/QĐKNPT-VKS-DS ngày 28/6/2021 của Viện trưởng VKSND tỉnh GL và chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Hoàng Xuân M, bà Lê Thị H; sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Huy T và bà Võ Thị S.
Bản án dân sự phúc thẩm số 186/2021/DS-PT ngày 21/10/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, quyết định:
“Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Chấp nhận kháng nghị số 02/QĐKNPT-VKS-DS ngày 28/6/2021 của Viện trưởng VKSND tỉnh GL; chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Hoàng Xuân M, bà Lê Thị H và sửa bản án sơ thẩm, xử:
Không chấp nhận đơn khởi kiện của ông Nguyễn Huy T và bà Võ Thị S về việc yêu cầu bị đơn ông Hoàng Xuân M và bà Lê Thị H trả lại diện tích đất 186m2, thửa số 22 và hủy GCNQSDĐ số CA 859932 ngày 03/9/2015 của UBND huyện K, đứng tên Hoàng Xuân M, Lê Thị H”.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí theo quy định.
III. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm
Năm 1995, gia đình nguyên đơn ông Nguyễn Huy T và gia đình bị đơn ông Hoàng Xuân M được Công ty lâm sản KHN bán thanh lý cùng một dãy nhà có 03 phòng của Công ty lâm sản KHN. Ông Hoàng Xuân M được mua thanh lý phòng chứa máy làm đá lạnh và 1/2 nhà ăn. Ông Nguyễn Huy T được thanh lý 1/2 nhà ăn và khu nhà bếp tại lô đất số 11. Phía sau dãy nhà thanh lý là khu vườn, có nhà vệ sinh và giếng nước được các đương sự sử dụng chung, hiện nay các bên đang tranh chấp.
Năm 1997, Liên hiệp công nghiệp KHN (nay là Công ty lâm sản KHN) đã bàn giao toàn bộ diện tích đất và danh sách người mua nhà thanh lý cho UBND huyện K quản lý.
Sau đó, phần đất được Công ty lâm sản KHN bán thanh lý, ông T và ông M đã được cấp GCNQSDĐ (ông T và bà Sự được cấp GCNQSDĐ ngày 04/9/2003 đối với thửa đất số 24, tờ bản đồ số 39, diện tích 171m2; còn ông M và bà H được cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất số 30, tờ bản đồ số 39, diện tích 143,7m2). Riêng phần diện tích đất đang tranh chấp nằm trong khu quy hoạch nên chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ai.
Nguyên đơn ông Nguyễn Huy T và bà Võ Thị S cho rằng diện tích đất 186m2 tại thửa số 22 là do Công ty lâm sản KHN giao cho gia đình Ông sử dụng từ năm 1993 và cung cấp Tờ trình xin đất làm vườn ngày 20/3/1993; Biên bản kiểm kê bồi thường làm đường cho Trường tiểu học LTT ngày 03/01/2015, nhưng tờ trình này bị sửa chữa năm và nội dung của tờ trình xin đất làm vườn, thể hiện ông T xin khai thác đất (mượn) để tăng gia sản xuất, cải thiện đời sống; không phải là xin giao đất.
Theo Báo cáo số 45/BC-TCHC ngày 01/4/1997 của Công ty lâm sản KHN là chỉ thanh lý nhà ở cho gia đình ông T để giải quyết khó khăn, không giao đất để sản xuất. Còn Biên bản kiểm kê bồi thường ngày 03/01/2015, ông T không được bồi thường về đất, chỉ bồi thường cây trên đất, nhưng ông T cũng không thắc mắc, khiếu nại là đã thừa nhận đất của Nhà nước.
Mặt khác, ngày 31/5/2012 ông T và bà H đã chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất 171m2 cho gia đình ông Nguyễn Chí D và bà Lương Thị G. Năm 2014, gia đình ông T và gia đình ông D xảy ra tranh chấp đối với diện tích đất chuyển nhượng. Tại Biên bản hòa giải ngày 1/7/2014, ông T đã đồng ý giao cho gia đình ông D phần đất liền kề phía sau, không nằm trong GCNQSDĐ đã cấp cho ông T.
Quá trình giải quyết vụ án, ông T thừa nhận không sử dụng diện tích đất tranh chấp từ sau khi kiểm kê, bồi thường tài sản. Do đó, gia đình ông T không đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tranh chấp theo quy định tại Điều 100 và Điều 101 Luật Đất đai năm 2013 và Điều 18 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ.
Còn gia đình bị đơn ông M và bà H cùng với gia đình ông Nguyễn Quang K đã trồng trọt, chăn nuôi trên khu vườn (diện tích đất tranh chấp), sử dụng chung công trình vệ sinh và giếng nước. Năm 1996, gia đình ông K chuyển đi nơi khác thì gia đình ông T về sử dụng chung. Ông K cũng có lời khai: “Từ năm 1994 - 1995, gia đình ông K và gia đình ông M sử dụng diện tích đất tranh chấp để chăn nuôi...”. Tại Biên bản làm việc ngày 21/5/2015 của UBND thị trấn K, phòng Tài nguyên môi trường, phòng kinh tế hạ tầng và tổ dân phố 7 cũng xác định: “Gia đình bà H đang sử dụng đất tại đường Bùi Thị Xuân, tổ dân phố 7...có sử dụng công trình vệ sinh, giếng nước và ngõ hẻm đều sử dụng chung ở phía sau từ năm 1995 cho đến nay” là phù hợp hiện trạng sử dụng đất là tường rào được xây dựng trên phần đất tranh chấp là của gia đình ông M, bà H. Còn gia đình ông T không có tài sản, vật kiến trúc trên diện tích đất tranh chấp.
Tại Thông báo số 78/TB-UBND ngày 12/6/2015 của UBND huyện K thể hiện, chủ trương giao đất là ưu tiên giao đất cho các gia đình có đất ở liền kề với khu đất quy hoạch và tại Công văn số 222/CV-TNMT ngày 17/9/2020 của Phòng Tài nguyên và Môi trường, UBND huyện K có nội dung: “Ủy ban nhân dân huyện K không thực hiện việc giải tỏa đền bù vì khu vực đất này thuộc đất Nhà nước quản lý... Ủy ban nhân dân huyện ưu tiên giao đất ở có thu tiền sử dụng đất (phần phía sau liền kề của từng hộ), đảm bảo mỗi hộ tại khu vực này đều được giao 01 lô đất ở quy hoạch và phải nộp 100% tiền sử dụng đất theo quy định; không căn cứ vào nguồn gốc đất họ đang sử dụng trước đó. Hộ ông Nguyễn Huy T, bà Võ Thị S cũng được cấp 01 lô đất ở phía sau (lô quy hoạch), với diện tích 224m2 thuộc lô số 19 ....”.
Như vậy năm 2015, UBND huyện K có chủ trương giao đất thu tiền sử dụng đất. Phần diện tích đất vườn trước đây được tách thành thửa 22 và thửa 23. Gia đình ông D, bà G (người nhận chuyển nhượng đất của ông T) nộp tiền sử dụng đất và được cấp GCNQSDĐ đối với thửa 23; còn gia đình ông M, bà H nộp tiền sử dụng đất và được cấp GCNQSDĐ ngày 03/9/2015 đối với thửa đất số 22 (thửa đất tranh chấp). Ông T cũng được cấp lô số 19, diện tích 224m2, tại khu quy hoạch dân cư tổ dân phố 7, có thu tiền sử dụng đất.
Ông T đã chuyển nhượng thửa đất cho ông D nên không phải là chủ sử dụng thửa đất liền kề với thửa đất 22 nữa. Ông M, bà H đã được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất đối với với thửa đất 22 là đúng chủ trương của UBND huyện K là mỗi gia đình tại khu vực này đều được Nhà nước giao 01 lô đất có thu tiền sử dụng đất. Ông M đã nộp tiền sử dụng đất và được cấp GCNQSDĐ ngày 03/9/2015 đối với diện tích đất tranh chấp là đúng quy định.
Tòa án nhân dân tỉnh GL đã xử; chấp nhận đơn khởi kiện của ông Nguyễn Huy T, bà Võ Thị S; buộc ông Hoàng Xuân M, bà Lê Thị H phải trả diện tích đất 231,8m2 tại thửa đất số 22, tổ dân phố 7, thị trấn K, huyện K, tỉnh GL cho ông T và bà S và tuyên hủy GCNQSDĐ đã cấp cho ông Hoàng Xuân M, bà Lê Thị H ngày 03/9/2015 là đánh giá chứng cứ để giải quyết vụ án không đúng quy định của pháp luật, ảnh hưởng đến quyền lợi của bị đơn.