Thông qua công tác giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm đối với vụ án Võ Văn Chí H phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” bị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng hủy Bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại, VKSND cấp cao tại Đà Nẵng thấy cần trao đổi rút kinh nghiệm chung như sau:
1. Tóm tắt nội dung và quá trình tố tụng của vụ án
Khoảng từ 01 giờ 25 phút đến 01 giờ 30 phút ngày 29/10/2021, tại quán K & K ở số 51 đường LVL, phường XP, thành phố K, tỉnh H, Võ Văn Chí H có hành vi tổ chức cho 03 nhóm với 21 đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy, thì bị Công an thành phố K phát hiện bắt quả tang.
Bản án hình sự sơ thẩm số 169/2022 ngày 26/7/2022 của Toà án nhân dân thành phố K, tỉnh H áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s, t khoản 1 Điều 51; Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Võ Văn Chí H 05 năm 09 tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”. Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với các bị cáo khác, quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 13/3/2023, Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đà Nẵng ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 27/QĐ-VC2 đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án sơ thẩm nêu trên, theo hướng huỷ phần hình phạt đối với bị cáo Võ Văn Chí H để xét xử sơ thẩm lại, không áp dụng điểm t khoản 1 Điều 51, tình tiết “ăn năn hối cải” tại điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 54 Bộ luật Hình sự, tăng hình phạt đối với bị cáo Võ Văn Chí H.
Quyết định giám đốc thẩm số 06/2023/HS-GĐT ngày 07/4/2023 của Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đã chấp nhận toàn bộ quyết định kháng nghị của Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đà Nẵng.
2. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm
Toà án cấp sơ thẩm áp dụng cho bị cáo Võ Văn Chí H hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là không đúng pháp luật, bởi lẽ theo hướng dẫn tại Công văn số 212/TANDTC-PC ngày 13/09/2019 của Toà án nhân dân tối cao thì “Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án” được hiểu là trường hợp người phạm tội có những hành vi, lời khai thể hiện sự hợp tác tích cực với cơ quan có trách nhiệm trong việc nhanh chóng làm sáng tỏ vụ án, giúp các cơ quan này phát hiện thêm tội phạm mới hoặc đồng phạm mới. Trong vụ án này, bị cáo Võ Văn Chí H cùng với 21 bị cáo khác phạm tội bị bắt quả tang; trong quá trình giải quyết vụ án, Võ Văn Chí H chỉ khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai của Võ Văn Chí H phù hợp với lời khai của các bị cáo khác tại biên bản phạm tội quả tang về hành vi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”. Hồ sơ vụ án và tại phiên toà sơ thẩm, bị cáo H không có lời khai hay cung cấp tài liệu, chứng cử có nội dung thể hiện sự tích cực hợp tác với cơ quan chức năng trong việc nhanh chóng làm sáng tỏ vụ án, giúp các cơ quan này phát hiện thêm tội phạm mới hoặc đồng phạm mới, cũng như phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm.
Về nhân thân, bị cáo Võ Văn Chí H có nhân thân xấu, trong thời gian chờ xét xử về hành vi phạm tội “Cố ý gây thương tích”, bị cáo tiếp tục phạm tội với lỗi cố ý trong vụ án này. Chuỗi hành vi của bị cáo thể hiện ý thức coi thường pháp luật, không thể hiện sự ăn năn, hối cải.
Toà án cấp sơ thẩm áp dụng cho bị cáo Võ Văn Chí H được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “ăn năn hối cải” quy định tại điểm s và tình tiết “Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án” quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, từ đó nhận định bị cáo Võ Văn Chí H có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 để áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Võ Văn Chí H mức hình phạt 05 năm 09 tháng tù (dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng) là sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật và quá nhẹ, không tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, vai trò của bị cáo trong vụ án này.