Vừa qua, Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử án hình sự (Vụ 7) VKSND tối cao đã ban hành Thông báo số 513/TB-VKSTC rút kinh nghiệm vụ án Nguyễn C.B phạm tội “Giết người” và “Cướp tài sản”. Trang tin điện tử VKSND tối cao trích đăng thông báo này để độc giả tham khảo.
Vừa qua, Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử án hình sự (Vụ 7) VKSND tối cao đã ban hành Thông báo số 513/TB-VKSTC rút kinh nghiệm vụ án Nguyễn C.B phạm tội “Giết người” và “Cướp tài sản”. Trang tin điện tử VKSND tối cao trích đăng thông báo này để độc giả tham khảo.
1. Nội dung vụ án và quá trình tố tụng:
Từ năm 2013, Nguyễn C.B (sinh ngày 28-5-2000) quen biết và có quan hệ tình dục đồng giới với anh Bùi C.Tr. Ngày 25-01-2015, anh Tr gọi điện rủ Nguyễn C.B đi chơi. B đã kể lại việc đã từng quan hệ tình dục đồng giới với anh Tr cho bạn của B là Trần H.B.T và em trai là Trần B.P nghe. Sau đó, B, T và P thống nhất hẹn anh Tr đến công viên B.G (huyện B.C) để dùng dao tấn công cướp tài sản của anh Tr. Tuy nhiên, tối ngày 25-01-2015 anh Tr có đến chỗ hẹn nhưng không thấy B nên đã bỏ về.
Đến khoảng 17 giờ ngày 26-01-2015, Nguyễn C.B nói với Trần H.B.T và Trần B.P tìm cho 01 con dao để B mang theo, một mình đi gặp anh Tr. Sau đó, P đã chở B đến gặp Lê M.Th. (là bạn của P) hỏi mượn dao. Th. lấy 01 con dao xếp bằng kim loại đưa cho B còn P chở B đến cầu K.X (huyện B.C) để gặp anh Tr. Khoảng 19 giờ cùng ngày, anh Tr chở Bảo về nhà trọ của anh Tr (ngõ 39, đường H.P, quận 8, thành phố H). Sau khi quan hệ tình dục xong, thừa lúc anh Tr đi vào nhà vệ sinh, B lấy dao đâm 01 nhát vào vùng vai phải của anh Tr. Anh Tr xoay người lại và giằng co vật lộn với B, làm cả hai người ngã từ trên cầu thang tầng 2 xuống tầng 1. Lúc này, anh Tr nhặt được dao nên B xông đến giật lại dao nên bị đứt ngón tay phải. Khi lấy được dao, B đâm liên tiếp nhiều nhát vào vùng đầu, cổ, vai, ngực, bụng và tay anh Tr. Anh Tr dùng chân đạp vào cửa kêu cứu. Thấy mọi người chạy đến, B bỏ dao chạy lên tầng thượng, bám theo ống nước xuống đất rồi gọi điện cho T đến đón.
Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 198-15/KLGĐ-PY ngày 27-02-2015 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố H kết luận: “Bùi C.Tr chết do sốc mất máu cấp bởi đa vết thương đâm thủng tĩnh mạch cảnh phải và phổi trái”.
Bản án hình sự sơ thẩm số 396/2015/HSST ngày 13/11/2015 của TAND thành phố H quyết định:
+ Áp dụng điểm g khoản 1 Điều 93; khoản 1 Điều 133; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 68; Điều 69; khoản 2 Điều 74; Điều 50 Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn C.B 10 năm tù về tội “Giết người” và 02 năm tù về tội “Cướp tài sản”; tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 12 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/01/2015.
+ Áp dụng Điều 42 Bộ luật Hình sự: Buộc bà Nguyễn Th.T (người đại diện hợp pháp của Nguyễn C.B) bồi thường tiền mai táng cho gia đình người bị hại (đại diện là bà Bùi Th.K.Ch) số tiền 126.000.000 đồng, được khấu trừ 4.000.000 đồng đã nộp trước đó tại cơ quan thi hành án.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với bị cáo Trần H.B.T, xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 20-11-2015, bà Nguyễn Th.T (người đại diện hợp pháp của Nguyễn C.B) kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho Nguyễn C.B.
Bản án hình sự phúc thẩm số 149/2016/HSPT ngày 23-3-2016 của TAND cấp cao không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Th.T; giữ nguyên các quyết định của bản án sơ thẩm.
Ngày 21-11-2017, Chánh án TAND tối cao ban hành Quyết định kháng nghị số 24/KN-HS đối với Bản án hình sự phúc thẩm số 149/2016/HSPT ngày 23-3-2016 của TAND cấp cao, đề nghị Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên và Bản án hình sự sơ thẩm số 396/2015/HSST ngày 13/11/2015 của TAND thành phố H về phần trách nhiệm dân sự để điều tra lại.
2. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm:
Về tội danh, hình phạt: Theo các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm kết án bị cáo Nguyễn C.B 12 năm tù về tội Giết người và Cướp tài sản là có căn cứ và đúng pháp luật. Sau khi xét xử phúc thẩm, bị cáo cũng không khiếu nại gì về tội danh và mức án.
Về trách nhiệm bồi thường dân sự:
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, thấy rằng: Nguyễn C.B sinh ngày 28-5-2000, nên khi phạm tội mới 14 tuổi 9 tháng, là người chưa thành niên. Từ trước khi xảy ra sự kiện phạm tội đến thời điểm xét xử, cha mẹ của Nguyễn C.B đã chết. Nguyễn C.B sống với bà Nguyễn Th.T (là em ruột của ông nội Nguyễn C.B) và được bà T nuôi dưỡng, chăm sóc.
Theo quy định tại Điều 61 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì “Người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên mà không còn cả cha và mẹ… được xác định như sau: (1) Trong trường hợp anh ruột, chị ruột không có thỏa thuận khác thì anh cả hoặc chị cả là người giám hộ… (2) Trong trường hợp không có anh ruột, chị ruột … thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám hộ; nếu không có ai trong số những người thân thích này có đủ điều kiện làm người giám hộ thì bác, chú, cậu, cô, dì là người giám hộ”. Thực tế, Nguyễn C.B không có anh chị ruột, nhưng các cơ quan tố tụng của thành phố H chưa điều tra làm rõ ngoài bà T ra thì ông bà nội, ông bà ngoại của B còn sống hay đã chết và nếu còn sống thì hiện nay họ đang sống ở đâu, có đủ điều kiện để làm người giám hộ cho B theo quy định của pháp luật hay không ? Chưa điều tra làm rõ B còn có ai là bác, chú, cậu, cô, dì còn sống hay không và những người này có đủ năng lực để thực hiện quyền, nghĩa vụ của người giám hộ cho B theo quy định của pháp luật hay không ? Trường hợp không có người giám hộ đương nhiên cho B thì cơ quan có thẩm quyền đã cử người giám hộ cho B theo quy định pháp luật chưa ? Tại sao bà Nguyễn Th.T lại nhận nuôi dưỡng và chăm sóc B?
Trong khi những vấn đề nêu trên chưa được làm rõ thì việc Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm xác định bà Nguyễn Th.T là người giám hộ của B, buộc bà T phải có trách nhiệm bồi thường tiền mai táng phí cho gia đình bị hại số tiền 126.000.000 đồng là chưa có căn cứ vững chắc, cần tiến hành điều tra lại nhằm làm rõ những tình tiết còn chưa sáng tỏ trong vấn đề này.
Chính vì vậy, tại Quyết định giám đốc thẩm số 10/2018/HS-GĐT ngày 13-4-2018, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã tuyên hủy toàn bộ Bản án hình sự phúc thẩm số 149/2016/HSPT ngày 23-3-2016 của TAND cấp cao và một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 396/2015/HSST ngày 13/11/2015 của TAND thành phố H về phần trách nhiệm dân sự để điều tra lại theo đúng quy định của pháp luật.
Thanh Hằng
(Tổng hợp)