Thông qua công tác kiểm sát xét xử giảm đốc thẩm đối với Bản án số 114/2019/DS-PT, ngày 10/6/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh VL giải quyết vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất”, giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Văn B với bị đơn là bà Võ Thị X đã có hiệu lực pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh thấy cần thông báo để rút kinh nghiệm như sau:
1. Nội dung vụ án:
Ngày 08/02/2007, ông Nguyễn Văn B được Ủy ban nhân dân (UBND) huyện BM cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) diện tích 5.712,6m2, thuộc thửa 294, tờ bản đồ số 2, ấp TT, xã TB, huyện BM, tỉnh VL (Thửa 294), nguồn gốc nhận thừa kế từ cụ Nguyễn Văn G. Trước đây, cụ G cho bà Võ Thị X và vợ chồng ông Bùi Văn D, bà Châu Thị U ở nhờ một nền nhà 400m2 và mượn 02 liếp đất vườn khoảng 1.200m2 để canh tác trên Thửa 294. Năm 2010, khi tiến hành đo đạc theo chương trình Vlap thì bà X, ông D, bà U tranh chấp với ông B, yêu cầu ông B phải tách quyền sử dụng đất cho bà X, ông D, bà U, ông B yêu cầu Tòa án buộc bà Võ Thị X, ông Bùi Văn D, bà Châu Thị U và các con của ông D, bà U phải có trách nhiệm di dời nhà cửa, vật kiến trúc, cây trồng gắn liền với quyền sử dụng 1.600m2 đất thuộc một phần Thửa 294 để trả lại cho gia đình ông.
Bà X, ông D, bà U không đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông B với lý do nguồn gốc đất tranh chấp là của cụ Nguyễn Văn Q (ông nội của ông Nguyễn Văn B) bán cho cụ Cao Thị K (bà cố của ông Bùi Văn D) từ năm 1940, khi cụ K qua đời thì cụ Huỳnh Thị N (bà nội của ông D) tiếp tục canh tác, sau đó cụ Bùi Văn A (cha ông D) tiếp tục canh tác. Cụ Bùi Văn A chết thì cụ Võ Thị X (mẹ ông D) và ông D tiếp tục canh tác sử dụng cho đến nay. Theo chương trình đo Vlap năm 2010, ông B cho rằng đã có GCNQSDĐ nên đã chặt phá những cây gia đình bà X trồng và trồng xen cây vào trên đất tranh chấp. Phần đất tranh chấp, cụ Bùi Văn A có kê khai đăng ký sổ mục kê thửa 1564, tờ bản đồ số 2, diện tích 1.200m2 và thửa 1566 diện tích 400m2 tờ bản đồ số 2 tại ấp TT, xã TB, huyện TB (nay là huyện BM), tỉnh VL. Bà X yêu cầu hủy một phần GCNQSDĐ Thửa 294 đã cấp cho ông B, công nhận quyền sử dụng thửa đất 1564 và thửa đất 1566 cho ông D.
UBND huyện BM trình bày: Thửa 294 hình thành năm 1991 gồm 03 thửa 1564, 1655, 1656. Ngày 31/3/1991, cụ Nguyễn Văn G xin cấp quyền sử dụng Thửa 294 và được Hội đồng đăng ký đất của xã xét cấp. Ngày 01/10/1996, UBND huyện BM cấp GCNQSDĐ Thửa 294, diện tích 6.300m2 cho cụ G. Năm 2005, cụ G để lại thừa kế cho ông B. Năm 2007, ông B được cấp GCNQSDĐ Thửa 294 diện tích 5.712,6m2.
2. Quá trình giải quyết vụ án
Tại Bản án số 40/2018/DS-ST, ngày 08/11/2018, TAND huyện BM, tỉnh VL (Bản án sơ thẩm), đã quyết định:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn B buộc bà X, ông D, bà U và các con của ông D và bà U phải có trách nhiệm di dời nhà cửa, vật kiến trúc, cây trồng gắn liền với quyền sử dụng đất chiết thửa 294-1 diện tích 150,4m2; chiết thửa 294-2 diện tích 119,2m2; chiết thửa 294-3 diện tích 755,8m2; chiết thửa 194-4 diện tích 472,4m2.
Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Bùi Văn D: Hủy một phần GCNQSDĐ thửa 294, diện tích 5,712m2, do ông B đứng tên quyền sử dụng đất. Công nhận cho ông D các phần đất thuộc: Chiết thửa 294-1 diện tích 150,4m2; chiết thửa 294-2 diện tích 119,2m2, chiết thửa 294-3 diện tích 755,8m2; chiết thửa 194-4 diện tích 472,4m2. Công nhận phần cây trồng cho ông Bùi Văn D được quyền sử dụng nhưng hoàn lại giá trị cây trồng cho ông Nguyễn Văn B là 9.460.000 đồng.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về các vấn đề liên quan khác. Ngày 20/11/2018, ông Nguyễn Văn B kháng cáo Bản án sơ thẩm.
Tại Bản án số 114/2019/DS-PT, ngày 10/6/2019 của TAND tỉnh VL (Bản án phúc thẩm), đã quyết định:
Chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn B: Sửa Bản án sơ thẩm Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn B.
Công nhận ông B được quyền sử dụng phần đất chiết thửa 194-3 diện tích 755,8m2, chiết thửa 294-4 diện tích 472,4m2.
Buộc bà X, ông D, bà U trả lại cho ông B các phần đất thuộc chiết thửa 294-3 diện tích 755,8m2, chiết thửa 294-4 diện tích 472,4m2 (kèm theo trích đo bản đồ địa chính khu đất).
Ông B được quyền sở hữu các cây trồng gắn liền phần chiết thửa 294-3 diện tích 755,8m2. Buộc ông B có trách nhiệm hoàn trả giá trị cây trồng cho bà X, ông D, bà U số tiền 7.175.000 đồng.
Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn Bùi Văn D.
Công nhận cho bà X, ông D, bà U được quyền sử dụng phần đất thuộc chiết thửa 294-1 diện tích 150,4m2 (trong đó có 105,2m2 đất ở nông thôn và 45,2m2 đất trồng cây lâu năm) và chiết thửa 294-2 diện tích 119,2m2 (kèm theo trích đo bản đồ địa chính khu đất).
Buộc bà X, ông D và bà U có trách nhiệm hoàn trả lại giá trị phần đất thuộc chiết thửa 294-1 diện tích 150,4m2 và chiết thửa 294-2 diện tích 119,2m2 cho ông B bằng số tiền 34.324.000 đồng.
Bà X, ông D, bà U được quyền sở hữu các cây trồng gắn liền phần đất chiết thửa 294-2 diện tích 119,2m2. Buộc bà X, ông D, bà U có trách nhiệm hoàn trả giá trị cây trồng cho ông B số tiền 2.325.000 đồng. Ghi nhận sự tự nguyện của ông B đồng ý để ngôi mộ của ông Bùi Văn A được tồn tại trên phần đất chiết thửa 294-3. Ông B và các thành viên trong gia đình ông B phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để con cháu ông A đi vào chăm sóc, viếng mộ ông A theo phong tục tập quán.
Ngoài ra, Bản án phúc thẩm còn quyết định về các vấn đề liên quan khác. Ông Bùi Văn D có đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án phúc thẩm.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 172/2021/DS-GĐT ngày 14/5/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã chấp nhận toàn Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 64/QĐKNGĐT-VKS-DS, ngày 01/02/2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh về việc hủy Bản án phúc thẩm và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
3. Vấn đề cần rút kinh nghiệm
Ông Nguyễn Văn B cho rằng phần đất tranh chấp do cụ Nguyễn Văn G (cha ông B) đã cho bà X, ông D, bà U ở nhờ nhưng không xuất trình được chứng cứ chứng minh. Bà X, ông D, bà U xác định nguồn gốc đất do gia tộc nhận chuyển nhượng của cụ Nguyễn Văn Q từ năm 1936 có xác nhận của Hương chức làng TQ. Đến năm 1980 cụ Bùi Văn A là cha ông D đã kê khai, đăng ký quyền sử dụng đất. Việc sử dụng đất của gia đình bà X là liên tục, ổn định, lâu dài, bảo đảm về việc xác lập quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 247 Bộ luật Dân sự năm 2005.
Theo chứng thực lưu trữ địa chính số 379/CTLT ngày 17/3/2015 của Trung tâm công nghệ thông tin tỉnh VL và Công văn số 570/UBND-NC ngày 14/7/2017 của UBND huyện BM xác định năm 1980 cụ Bùi Văn A (cha ông D) có đăng ký thửa 1564 diện tích 1.200m2 và thửa đất 1566 diện tích 400m2. Còn cụ G (cha ông B) đăng ký thửa 1565 diện tích 5.400m2. Tuy nhiên, đến năm 1991 khi thực hiện đo đạc chương trình đất thì cụ G đăng ký kê khai tổng diện tích là 6.300m2 gồm cả 3 thửa 1564, 1565, 1566 nhập thành Thửa 264 và được cấp GCNQSĐ ngày 01/10/1996. GCNQSDĐ cấp cho ông B không trùng khớp với hiện trạng sử dụng đất của các bên với lý do năm 1991 Thửa 264 có diện tích 6.300m2 nhưng đến năm 2005 giảm xuống còn 5.712,6m2 do sạt lở cặp rạch thông lưu và làm đường giao thông nông thôn. Tại Quyết định số 65/QĐ-UBND ngày 17/01/2006 của UBND huyện BM đã hủy bỏ GCNQSDĐ cấp ngày 01/10/1996 do mất Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau đó ông B làm thủ tục thừa kế và được cấp GCNQSDĐ ngày 08/02/2007. UBND cấp GCNQSDĐ cho cụ G ngày 01/10/1996 (trong khi cụ G đã chết ngày 28/6/1993) đối với toàn bộ thửa đất số 264 là không đúng đối tượng và thực tế quá trình sử dụng đất, không đúng quy định của pháp luật về đất đai.
Bản án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông B và hủy một phần GCNQSDĐ đối với phần đất ông D, bà U, bà X đang sử dụng tại chiết thửa 294-1; 294-2; 294-3; 294-4 thuộc một phần Thửa 294 là có căn cứ đúng quy định của pháp luật. Bản án phúc thẩm chấp nhận yêu cầu của ông B, buộc bà X, ông D, bà U trả lại cho ông B phần đất nêu trên là không có căn cứ, không đúng quy định pháp luật.