CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

The Supreme People’s Procuracy of Viet Nam

Thông báo rút kinh nghiệm vụ án “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất”

18/03/2019
Cỡ chữ:   Tương phản
Ngày 05/3/2019, VKSND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh ra Thông báo số 07/TB-VKS-DS rút kinh nghiệm vụ án dân sự về việc “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất”...

Ngày 05/3/2019, VKSND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh ra Thông báo số 07/TB-VKS-DS rút kinh nghiệm vụ án dân sự về việc “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất” theo thủ tục phúc thẩm, do TAND tỉnh C xét xử theo thủ tục sơ thẩm, bị TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh hủy án để giải quyết lại.

Nội dung vụ án

Cụ Đinh Văn L và cụ Kiều Thị U chung sống có 6 người con, gồm: Đinh Văn M (hy sinh năm 1984), Đinh Thị T, Đinh Thị M, Đinh Thị N, Đinh Thị U và Đinh Thị Th. Cụ L (chết ngày 19/4/1991), cụ U chết ngày (31/12/2016). Cụ L được cha để lại phần đất 18 công tầm 03 mét. Khi cụ L chết, cụ U quản lý toàn bộ phần đất này và đến năm 1996, cụ U được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 26 680m2 tọa lạc tại ấp Dân Quân, xã Việt Thắng, huyện Phú Tân, tỉnh C. Khi còn sống, cụ U có công bố chia cho bà Đinh Thị Th 04 công đất và bà Th đã nhận canh tác, phần còn lại chia cho mỗi người con 04 công nhưng chưa tách quyền sử dụng. Bà Đinh Thị Th có người con tên Trần Thị Th và chồng là Lê Văn T về sống chung với cụ U vào năm 2015 để chăm sóc cụ U và tạm quản lý tài sản, khai thác hoa lợi, lợi tức từ tài sản và được các nguyên đơn đồng ý. Sau khi cụ U chết, các nguyên đơn phát hiện phần đất nêu trên chị Th đã đứng tên quyền sử dụng, các nguyên đơn cho rằng việc lập thủ tục tặng cho là không đúng vì lúc đó, cụ U bị bệnh, không còn minh mẫn.

Quá trình giải quyết vụ án

Bản án dân sự sơ thẩm số 15/2018 ngày 09/4/2018 của TAND tỉnh C quyết định:

“1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn gồm: Đinh Thị T, Đinh Thị M, Đinh Thị N và Đinh Thị U về việc: Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của chị Trần Thị Th và yêu cầu chia thừa kế di sản phần diện tích đất 24 554m2 tọa lạc tại ấp Dân Quân, xã Việt Thắng, huyện Phú Tân, tỉnh C do cụ Kiều Thị U để lại.

2. Về chi phí thẩm định, định giá: 19 735 000 đồng, các nguyên đơn Đinh Thị T, Đinh Thị M, Đinh Thị N và Đinh Thị U phải chịu toàn bộ, đã nộp xong.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm, mỗi nguyên đơn phải chịu 300 000 đồng, ngày 17/5/2017, đã dự nộp 2 668 000 đồng theo biên lai số 001089 tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh C được đối từ chuyển thu. Như vậy, các nguyên đơn được hoàn lại 1 468 000 đồng”.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về chi phí định giá và quyền kháng cáo. 

Ngày 23/4/2018, các nguyên đơn Đinh Thị T, Đinh Thị M, Đinh Thị N, Đinh Thị U, Lê Kim P làm đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho và chia thừa kế phần tài sản của cha là Đinh Văn L chết để lại.

Ngày 24/4/2018, Viện trưởng VKSND tỉnh C ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 06/QĐKVPT-VKS-DS đề nghị sửa án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu của các nguyên đơn, hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Trần Thị Th, chia thừa kế theo pháp luật phần đất qua đo đạc thực tế là 24 554m2, sau khi chia cho Trần Thị Th 2000m2, chia cho Đinh Thị Th 5000m2, còn 17 554m2 chia đều cho 4 nguyên đơn; buộc các nguyên đơn trả cho ông Nguyễn Văn T 17 chỉ vàng 24k, buộc ông T trả đất lại cho các con cụ U để chia thừa kế.

Bản án dân sự phúc thẩm số 401/2018/DS-PT ngày 24/12/2018 của TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

“Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 15/2018/DSST ngày 09/4/2018 của TAND tỉnh C và chuyển hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh C giải quyết lại vụ án”.

Những vấn đề cần rút kinh nghiệm

Về nguồn gốc đất: Các bên đương sự đều trình bày phần đất tranh chấp là của cụ L, cụ U để lại. Ngày 19/4/1991, cụ L chết không để lại di chúc. Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập chứng cứ để xem xét việc UBND huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cụ U có đúng quy định pháp luật hay không, vào thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cụ U thì ý kiến của các đồng thừa kế của cụ L như thế nào, các đồng thừa kế có yêu cầu nhận di sản là quyền sử dụng đất đối với phần cụ L để lại hay tất cả đều tặng cho cụ U đối với kỳ phần thừa kế của họ theo quy định tại Điều 97 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tòa án cấp sơ thẩm xác định quá trình cụ U được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì các con, cháu đều không tranh chấp để công nhận phần đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng hợp pháp của cá nhân cụ U là chưa đầy đủ cơ sở pháp lý, vì thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế đối với di sản là quyền sử dụng đất của cụ L vẫn còn và chưa có căn cứ để xác định các đồng thừa kế thống nhất tặng cho toàn bộ kỷ phần thừa kế của mình cho cụ U để cụ U được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Xét thấy, Quyết định kháng nghị của Viện trưởng VKSND tỉnh C là cần thiết. Tuy nhiên, chưa nhận thấy được các vi phạm của cấp sơ thẩm như đã phân tích ở trên để kháng nghị theo hướng hủy án, cần rút kinh nghiệm nhằm nâng cao trách nhiệm của VKS địa phương để thực hiện tốt Chỉ thị số 10/CT-VKSTC ngày 06/4/2016 của VKSND tối cao trong thời gian tới.

Mặt khác, trong quá trình kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án, VKS địa phương cần thực hiện tốt công tác kiểm sát thụ lý, việc thu thập chứng cứ của Tòa án cấp sơ thẩm có đảm bảo đầy đủ theo quy định tại Điều 97 Bộ luật Tố tụng dân sự, việc đánh giá chứng cứ của cấp sơ thẩm có khách quan và đúng quy định tại Điều 108 Bộ luật Tố tụng dân sự hay không. Từ đó, kịp thời phát hiện vi phạm và ban hành kháng nghị phù hợp với nội dung vi phạm.

Thanh Hằng

(Tổng hợp)

Tìm kiếm