Thông qua công tác xét xử giám đốc thẩm vụ án Trần Xuân T và Lê Văn B, phạm tội “Đánh bạc” bị hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại, VKSND cấp cao tại Đà Nẵng thấy cần trao đổi đến các VKSND trong khu vực để rút kinh nghiệm chung.
1. Nội dung vụ án
Khoảng 14 giờ ngày 31/5/2018, bị cáo Lê Văn B đi mua gỗ tại xã I, huyện C, tỉnh G. Do chủ nhà bán gỗ đi vắng, đồng thời nghe một số người nói, tại khu vực Thủy điện Z thuộc xã Y, huyện S, tỉnh K có đánh bạc nên bị cáo B đi đến khu vực nêu trên để đánh bạc. Tại đây, bị cáo B nhìn thấy nhiều người tập trung đánh bạc thắng thua bằng tiền, dưới hình thức “xóc đĩa”. Bị cáo B lấy 2.300.000 đồng trong số tiền mang theo là 20.300.000 đồng để tham gia đánh bạc. Cùng ngày, bị báo Trần Xuân T mang theo 20.000.000 đồng, nhờ đối tượng tên “Cu em” (không rõ lai lịch) điều khiển xe mô tô chở bị cáo T từ thị trấn X, huyện C, tỉnh G vào khu vực Thủy điện Z để đánh bạc.
Đến 16 giờ 30 ngày 31/5/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra (CSĐT) Công an huyện C, tỉnh G phát hiện, lập biên bản phạm tội quả tang đối với những người đang có mặt tại sòng bạc và khu vực xung quanh sòng bạc, gồm: Trần Mộng H, bị cáo T, Ngô Văn P, Lê Tùng D, Đỗ Xuân P, bị cáo B, Lê Thành K, Tạ Ngọc L, Phan Lê V; thu giữ số tiền 94.304.000 đồng. Tuy nhiên, Cơ quan CSĐT không bắt được tất cả các đối tượng tham gia đánh bạc mà chỉ xác định được bị cáo T và bị cáo B sử dụng 29.300.000 đồng trong tổng số tiền 94.304.000 đồng để tham gia đánh bạc.
Ngày 02/6/2018, Cơ quan CSĐT Công an huyện C, tỉnh G chuyển hồ sơ và tang vật vụ việc cho Cơ quan CSĐT Công an huyện S, tỉnh K để điều tra theo thẩm quyền, vì địa điểm đánh bạc thuộc địa bàn xã Y, huyện S, tỉnh K.
2. Quá trình tố tụng của vụ án
- Kết luận điều tra số 02/KLĐT ngày 20/01/2019, Cơ quan CSĐT Công an huyện S, tỉnh K đề nghị truy tố Trần Xuân T và Lê Văn B về tội “Đánh bạc” theo Điều 321 Bộ luật Hình sự.
Đối với các đối tượng: Trần Mộng H, Ngô Văn P, Lê Tùng D, Đỗ Xuân P, Lê Thành K, Tạ Ngọc L, Phan Lê V dù có mặt tại hiện trường, nhưng chỉ khai nhận là xem đánh bạc nên Cơ quan CSĐT Công an huyện S, tỉnh K cho rằng không có cơ sở để xử lý.
Đối với các đối tượng khi bị Công an huyện C, tỉnh G phát hiện đã bỏ chạy, không xác định được nhân thân nên tiếp tục điều tra, xử lý sau.
- Cáo trạng số 02/CT-VKS ngày 31/01/2019, VKSND huyện S, tỉnh K truy tố Trần Xuân T và Lê Văn B về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự (với số tiền dùng để đánh bạc là 29.300.000 đồng).
- Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2019/HS-ST ngày 07/3/2019 của TAND huyện S, tỉnh K quyết định:
Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Xuân T 14 tháng tù về tội “Đánh bạc”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 28 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị báo Lê Văn B 08 tháng tù về tội “Đánh bạc”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 16 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.
- Ngày 04/4/2019, VKSND tỉnh K có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 44/QĐ-VKS đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2019/HS-ST ngày 07/3/2019 của TAND huyện S, tỉnh K, đề nghị TAND tỉnh K xét xử theo thủ tục phúc thẩm, hủy bản án sơ thẩm nêu trên để điều tra lại.
Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 30/5/2019, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa rút toàn bộ kháng nghị, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm TAND tỉnh K ban hành Quyết định số 09/2019/HSPT-QĐ, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với vụ án Trần Xuân T và Lê Văn B về tội “Đánh bạc”; bản án sơ thẩm số 02/2019/HS-ST ngày 07/3/2019 của TAND huyện S, tỉnh K có hiệu lực từ ngày 30/5/2019.
- Ngày 21/4/2020, Chánh án TAND cấp cao tại Đà Nẵng có Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 06/2020/KN-HS, đề nghị Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Đà Nẵng xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, hủy Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 09/2019/HSPT-QĐ ngày 30/5/2019 của TAND tỉnh K và Bản án sơ thẩm số 02/2019/HS-ST ngày 30/7/2019 của TAND huyện S, tỉnh K để điều tra lại theo đúng quy định của pháp luật.
- Quyết định giám đốc thẩm số 22/2020/HS-GĐT ngày 07/7/2020 của Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Đà Nẵng tuyên xử: Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 06/2020/KN-HS ngày 21/4/2020 của Chánh án TAND cấp cao tại Đà Nẵng, hủy Quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm số 09/2019/HSPT-QĐ ngày 30/5/2019 của TAND tỉnh K và Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2019/HS-ST ngày 07/3/2019 của TAND huyện S, tỉnh K để điều tra lại theo đúng quy định pháp luật.
3. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm
Trong quá trình lấy lời khai ban đầu tại Cơ quan CSĐT Công an huyện C, tỉnh G, bị cáo Trần Xuân T khai nhận: … Có 35 đến 40 người tham gia đánh bạc; … do bản thân bị cáo T lo tập trung vào “bát rung” trên chiếu bạc nên chỉ biết một số người tham gia đánh bạc như Phan Lê V, Lê Thành K và Tạ Ngọc L,… Người đứng ra tổ chức đánh bạc là Lê Thành K, người làm “hồ ly” (chung tiền) có tên là Sáu Bé, người cung cấp thức ăn là N…
Đối tượng Lê Thành K thừa nhận: Sòng bạc là do chính bản thân K đứng ra tổ chức, phục vụ bán nước uống, thức ăn và thu tiền 1.000.000 đồng/ngày; những người tham gia đánh bạc có V, T, Sáu Bé…
Lời khai ban đầu của bị cáo Lê Văn B và đối tượng Đỗ Xuân P đều khẳng đinh: Người tổ chức đánh bạc tại khu vực Thủy điện Z vào ngày 31/5/2018 chính là Lê Thành K.
Khi vụ việc được chuyển cho Cơ quan CSĐT Công an huyện S, tỉnh K để điều tra theo thẩm quyền, thì các đối tượng liên quan nêu trên thay đổi lời khai, dẫn đến mâu thuẫn giữa các lời khai và không phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu,…; thế nhưng Cơ quan CSĐT Công an huyện S, tỉnh K không tiến hành đối chất để làm sáng tỏ hành vi của từng đối tượng mà kết luận các đối tượng Trần Mộng H, Ngô Văn P, Lê Tùng D, Đỗ Xuân P, Lê Thành K, Tạ Ngọc L, Phan Lê V,… không tổ chức đánh bạc và không tham gia đánh bạc vào ngày 31/5/2018 là chưa đủ căn cứ vững chắc, có dấu hiệu bỏ lọt người phạm tội.
Ngoài ra, cơ quan tiến hành tố tụng huyện S, tỉnh K chỉ căn cứ vào lời khai của bị cáo T và bị cáo B để xác định số tiền dùng để đánh bạc của các bị cáo là 29.300.000 đồng nên truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo T, B về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự là chưa đủ căn cứ. Bời vì: Theo biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ và bản ảnh hiện trường do Cơ quan CSĐT Công an huyện C, tỉnh G lập, thể hiện khu vực đánh bạc có 02 chiếu bạc. Bên cạnh đó, bị cáo T, bị cáo B và các đối tượng liên quan như Trần Mộng H, Ngô Văn P, Lê Tùng D, Đỗ Xuân P, Lê Thành K, Tạ Ngọc L, Phan Lê V đều khai tại hiện trường có khoảng 30 người tham gia đánh bạc; số tiền tạm giữ trên chiếu bạc là 94.304.000 đồng. Tuy nhiên, Cơ quan CSĐT Công an huyện S, tỉnh K đã không điều tra làm rõ tại thời điểm bắt quả tang có mấy chiếu bạc đang hoạt động? Số tiền nêu trên thu giữ của mấy chiếu bạc? Bị cáo T và bị cáo B tham gia là bao nhiêu? Số tiền trên chiếu bạc có bị cáo T và bị cáo B tham gia là bao nhiêu? Giả sử số tiền nêu trên chỉ thu giữ tại chiếu bạc có bị cáo T và bị cáo B tham gia đánh bạc, thì các bị cáo T và B phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tổng số tiền của những người cùng đánh bạc được thu giữ trực tiếp tại chiếu bạc là 93.304.000 đồng và phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Đánh bạc” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình sự.