Nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát giải quyết án kinh doanh thương mai, Vụ 12 đã rút kinh nghiệm cho các VKSND địa phương qua giải quyết...
Một số kinh nghiệm về giải quyết vụ án kinh doanh thương mại
Nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát giải quyết án kinh doanh thương mai, Vụ 12 đã rút kinh nghiệm cho các VKSND địa phương qua giải quyết vụ án Kinh doanh thương mại có tính chất điển hình. Trang thông tin điện tử VKSND tối cao trích đăng để các đơn vị có liên quan nghiên cứu, học tập và áp dụng kinh nghiệm trong công tác kiểm sát.
Nội dung vụ án:
Nguyên đơn: Ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long (địa chỉ (Võ Văn Tần, quận 3, Tp. Hồ Chí Minh).
Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Chi và anh Nguyễn Công Minh ( Đ/c: 250 Phạm Hùng, phường 9, Tp. Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long).
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyên Công Tâm và các con Nguyễn Kim Ngân, Nguyễn Ngọc Trân.
Chị Văn Kim Lan.
Trước tòa, bà Chi trình bày: bà và con trai là Nguyễn Công Minh, ký hợp đồng tín dụng vay Ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long (gọi tắt là Ngân hàng) số tiền 100.000.000 đồng, trong thời hạn 12 tháng, kể từ ngày 3-1-2007. Để đảm bảo cho khoản vay, bà Chi và anh Minh ký hợp đòng thế chấp với Ngân hàng bằng tài sản là căn nhà cấp 4 diện tích 120 m2 trên diện tích đất thổ vườn 142,7 m2 theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu đất cấp hợp pháp cho hộ gia đình bà Chi, do bà Chi đứng tên. Bà Chi đã trả được 5000.000 đồng nợ gốc và trả lãi đến ngàỳ 05/10/2007 thì không trả được nợ nữa.
Ngày 13/8/2008 Ngân hàng khởi kiện vụ án, yêu cầu bà Chi trả số nợ trên và tiền lãi phát sinh đến ngày xét xử án sơ thẩm.
Bà Chi và anh Minh đều thừa nhận khoản nợ này.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án ND tỉnh Vỉnh Long, tại bản án KDTM sơ thẩm số 42 ngày 22/9/2010, nhận định : Giấy chứng nhận mang tên bà Chi cấp cho hộ gia đình gồm bà Chi, anh Minh, anh Tâm, chị Lan, cháu Ngân, cháu Trâm (đều trên 15 tuổi). Chị Lan đã li hôn với anh Minh từ 2007 nên không có yêu cầu về tài sản tranh chấp. Giấy đề nghị vay vốn có ghi tên bà Chi, anh Minh và anh Tâm, nhưng anh Tâm không thừa nhận ký và không đồng ý thế chấp nhà nên phần hợp đồng này vô hiệu, Toà án đã giải thích về quyền yêu cầu chia tài sản cho các thành viên trong hộ gia đình bà Chi nhưng không có đương sự nào yêu cầu nên Tòa án không có cơ sở tự đưa ra giải quyết vụ án chia tài sản chung để xác định phần tài sản của bà Chi, anh Minh. Tòa đã quyết định: Chấp nhận đơn khởi kiện của Ngân hàng, buộc bà Chi và anh Minh phải thanh toán cho Ngân hàng tiền gốc vay 95.000.000 đồng và lãi xuất tổng cộng là 54. 900.000 đồng, tổng bằng 149. 952.000 đồng.
- Kể từ ngày bản án có hiệu lực và Ngân hàng có đơn yêu cầu thi bà Chi và anh Minh còn phải chịu lãi xuất theo quy đinh tại khoản 2 Điều 305 của Bộ luật dân sự cho đến khi thi hành án xong.
- Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của anh Nguyễn Công Tâm.
- Vô hiệu một phần hợp đồng thế chấp ký giữa bà Chi và anh Minh với Ngân hàng đối với phần tài sản của anh Tâm trong thửa đất diện tích 142, 7m2, loại đất thổ vườn và căn nhà cấp 4 diện tích 120 m2 gắn liền trên đất do hộ bà Chi đứng tên GCNQSĐ.
- Giữ nguyên phần hợp đồng thế chấp đã ký giữa bà Chi và anh Minh với Ngân hàng đối với phần tài sản của bà Chi và anh Minh trong thửa đất diện tích 142, 7 m2 loại đất thổ vườn và căn nhà gắn liền trên đất do hộ bà Chi đứng tên GCNQSDD.
- Buộc bà Chi và anh Minh phải giao cho Ngân hàng phần tài sản cuả bà Chi và anh Minh trong khối tài sản thế chấp gồm: Thửa đất diện tích 142,7 m2 loại đất thổ vườn và căn nhà cấp 4 diện tích 120 m2 gắn liền trên đất để Ngân hàng yêu cầu tổ chức có thẩm quyền bán đấu giá nhằm thu hồi số nợ trên cho Ngân hàng theo quy định của pháp luật.
- Các đương sự được quyền kiện một vu kiện khác để xác định giá trị tài sản của từng người trong khối tài sản chung của gia đình bà Chi khi các đương sự có yêu cầu.
Sau khi có án sơ thẩm bà Chi kháng cáo.
Tòa phúc thẩm tại Tp. HCM ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án, giữ nguyên quyết định của án sơ thẩm với lý do bà Chi đã được tống đạt giấy triệu tập 2 lần nhưng đều vắng mặt. Cục thi hành án dân sự tỉnh Vĩnh Long có công văn thông báo đến các cơ quan chức năng về việc không thể thi hành án được.
Ngày 20-6-2014 Chánh án TAND tối cao đã kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án sơ thẩm trên theo hướng hủy án và giao hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh Vĩnh long xét xử lại theo quy định cuả pháp luật với lý do:
- Bản án sơ thẩm không xác định cụ thể trách nhiệm của bà Chi và anh Minh về phần lãi suất phải chịu đối với khoản tiền nào khi bản án sơ thẩm có hiệu lực.
- Đối với tài sản thế chấp cần được xử lý: thửa đất số 15, tờ bản đồ số 37, diện tích 142,7 m2 Giấy CNQSDĐ mang tên bà Chi chủ hộ, khi ký hợp đồng thế chấp chỉ có bà Chi và anh Minh, không có sự đồng ý chấp thuận của các thành viên khác từ đủ 15 tuổi trở lên trong cùng 1 hộ nhưng khi xét xử TAND tuyên HĐ thế chấp trên vô hiệu một phần, đã không chỉ rõ là phần nào là sai lầm nghiêm trọng.
Qua nghiên cứu hồ sơ, VKSND tối cao thấy:
Khi giải quyết tranh chấp về khoản lãi, phải xác định đây là tiền lãi phải trả theo HĐ tín dụng để tuyên buộc bà Chi, anh Minh tiếp tục chịu tiền lãi theo mức lãi xuất đã thỏa thuận tại HĐ tín dụng trên số nợ gốc kể từ sau ngày xét xử sơ thẩm cho tới khi trả hết số nợ gốc mới đúng. Việc Tòa án tuyên buộc bà Chi và anh Minh còn phải chịu lãi xuất theo quy định tại khoản 2, Điều 305 của Bộ luật dân sự cho đến khi thi hành án xong là không đảm bảo đúng nguyên tắc bảo vệ quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự.
TAND cấp sơ thẩm chưa thu thập đầy đủ chứng cứ xác minh làm rõ quyền lợi nghĩa vụ của các thành viên đủ 15 tuổi trở lên trong hộ bà Chi tại thời điểm ký HĐ thế chấp ngày 30-01-2007 trên để xem xét tính hợp pháp của HĐ là chưa đúng với các quy định tại khoản 2 Điều 109 BLDS và khoản 2 Điều 146 Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về Thi hành luật Đất đai.
Do vậy, kháng nghị của Chánh án TANDTC trên đây là cần thiết và kịp thời.
Tại phiên tòa xét xử giám đốc thẩm, Tòa kinh tế TANDTC đã quyết định hủy bản án sơ thẩm số 42 giao lại cho TAND tỉnh Vính Long xét xử lại, là đúng pháp luật.
Từ vụ án trên, VKSND tối cao rút một số kinh nghiệm:
Về đặc điểm: vụ án không thể thi hành bản án được do không có căn cứ xác định chính xác giá trị tài sản và quyền định đoạt tài sản của người phải thi hành án; là án cấp sơ thẩm có sai lầm nghiêm trọng nhưng không được xét xử lại ở cấp phúc thẩm với lý do người kháng cáo vắng mặt không lý do tại phiên tòa hai lần liên tiếp mặc dù đã nhận được giấy triệu tập hợp lệ.
Bản án bị TANDTC kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng đề nghị Tòa kinh tế xử hủy bản án sơ thẩm, giao hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại từ đầu do lỗi của TAND cấp sơ thẩm không xác minh, thu thập chứng cứ đầy đủ và đúng quy định của pháp luật.
Viện KSND cấp sơ thẩm qua công tác kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án không phát hiện được vi phạm của Tòa án để kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. VKSND cấp phúc thẩm cũng không phát hiện được vi phạm của Tòa án khi kiểm sát quyết định đình chỉ vụ án trên.
Trong xử lý tài sản thế chấp bằng quyền sử dụng đất: hợp đồng thế chấp tài sản tài sản là quyền sử dụng đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hộ bà Chi, do HĐ không đủ chữ ký của mọi thành viên theo quy định của Bộ luật dân sự và pháp luật về đất đai có hiệu lực tại thời điểm đó nên phải xác định HĐ đó vô hiệu toàn bộ. Tòa án chỉ tuyên vộ hiệu một phần về tài sản của anh Tâm trên diện tích đất là không đúng pháp luật.
Như vậy, cần xem xét và chú ý tới ý kiến của người có quyền lợi và nghiã vụ liên quan đến quyền sử dụng đất trong quá trình giải quyết vụ án. Nếu thiếu lời trình bày của họ trong hồ sơ, phải yêu cầu tòa án xác minh, bổ sung, đặc biệt là lời trình bày của những người có tên trong hộ, sổ hộ khẩu đối với với quyền sử dụng đất được cấp cho hộ ga đình.
Về căn cứ áp dụng luật,quyết định phương thức, cách tính lãi của Tòa án đối với khoản vay Ngân hàng: Trong vụ án này, Tòa án tuyên xử: kể từ ngày bản án có hiệu lực và Ngân hàng có đơn yêu cầu thi hành án thì bà Chi và anh Minh còn phải chịu lãi xuất theo quy định tại khoản 2 Điều 305 của BLDS cho đến khi thi hành án xong. Tuy nhiên theo quy định của BLDS thỏa thuận dân sự phù hợp với pháp luật về khoản vay có tính lãi của hai bên phải được tôn trọng. Như vậy việc Tòa án tuyên bà Chi và anh Minh buộc phải trả lời theo quy định của BLDS khi đã có thỏa thuận khác là không đúng.
Bài học rút ra từ nội dung này là cần xem xét căn cứ pháp luật nào để các bên tham gia ký hợp đồng áp dụng mức lãi xuất cho vay, lãi xuất vay quá hạn, thỏa thuận về mức phạt, về phí và lệ phí, chi phí phát sinh…Chỉ có thể áp dụng BLDS để tính lãi trong hai trường hợp: Khi không có thỏa thuận về lãi xuất và khi thỏa thuận về lãi xuất không đúng quy định của pháp luật.
Xem xét quyền và nghĩa vụ của đương sự khác liên quan đến vụ án:
Tòa tuyên “ Các đường sự được quyền khởi kiện một vụ kiện khác để xác định giá trị tài sản của từng người trong khối tà sản chung của gia đình bà Nguyễn Thị Chi khi các đương sự có yêu cầu” trong khi bị đơn phải thi hành án với tài sản là: thửa đất và căn nhà để Ngân hàng yêu cầu tổ chức có thẩm quyền bán đấu giá lại là tài sản chung của nhiều đương sự trong cùng hộ gia đình đã không đảm bảo quyền lợi của mỗi thành viên trong gia đình.
Như vậy khi nhận được bản án, quyết định của Tòa án tuyên xử về tài sản liên quan đến quyền sở hữu, quyền sử dụng của nhiều người đã được đem làm tài sản thế chấp hoặc là số tài sản được sử dụng chung trong thời kỳ hôn nhân tồn tại, cần phải xem xét kỹ nội dung phần nhận định của bản án, quyết định xem đã phân định rõ trách nhiệm, quyền lợi của mỗi thành viên hay chưa. Trường hợp tài sản chung của gia đình thì phải phải có đủ ý kiến của các thành viên có chung sở hữu, quyền sử dụng. Khi giải quyết những vấn đề tài sản liên quan đến vợ chồng phải xem xét đến mục đích, cách thức hoặc tình trạng sử dụng tài sản, thì mới giải quyết đúng đắn vụ án.
Thái Hưng