Vừa qua, VKSND tối cao ban hành thông báo rút kinh nghiệm vụ án kinh doanh thương mại bị cấp phúc thẩm hủy án do vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng và xác minh thu thập chứng cứ không đầy đủ; Trang tin điện tử VKSND tối cao trích đăng để bạn đọc tham khảo:..
VKSND tối cao rút kinh nghiệm vụ án kinh doanh
thương mại có vi phạm bị cấp phúc thẩm xử hủy án
Vừa qua, VKSND tối cao ban hành thông báo rút kinh nghiệm vụ án kinh doanh thương mại bị cấp phúc thẩm hủy án do vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng và xác minh thu thập chứng cứ không đầy đủ; Trang tin điện tử VKSND tối cao trích đăng để bạn đọc tham khảo:
Vụ thứ nhất:
Công ty Cổ phần chế biến nông sản thực phẩm vay tiền Chi nhánh Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển theo hợp đồng tín dụng trung hạn số 3777 ngày 14/8/2003 và Hợp đồng tín dụng hạn mức số 484 ngày 18/5/2007. Tổng nợ gốc và lãi của 2 Hợp đồng trên tạm tính đến ngày 25/9/2012 là 36.755.609.197 đồng và phải chịu lãi tiếp theo các hợp đồng đã ký. Nếu Công ty Cổ phần chế biến nông sản thực phẩm không trả được nợ thì Ngân hàng có quyền đề nghị cơ quan thi hành án phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi nợ.
Do có kháng cáo của Công ty Cổ phần chế biến nông sản thực phẩm và của một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, vụ án được giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
Tòa phúc thẩm TAND tối cao đã căn cứ khoản 3 Điều 275, khoản 2 Điều 277 Bộ luật tố tụng dân sự hủy bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm, chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án do có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm:
Để vụ án được giải quyết triệt để, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cùa những người tham gia tố tụng, trên cơ sở những chứng cứ, tài liệu do các bên cung cấp, cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định đúng và đầy đủ tư cách những người tham gia tố tụng để triệu tập họ đến phiên tòa. Trong vụ án nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm xác định không đầy đủ, chính xác tư cách người tham gia tố tụng là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, cụ thể như sau:
Về người đại diện hợp pháp của bị đơn tham gia tố tụng:
Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định ông Hoàng Tân Cương là người đại diện theo pháp luật của Công ty Cổ phần chế biến nông sản thực phẩm nhưng ông Hoàng Tân Cương đã bỏ nhiệm sở từ 9/2010 và bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, quyền hạn (bản án phúc thẩm ngày 15/3/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh BG). Theo khoản 1 Điều 36, khoản 2 Điều 37 Điều lệ hoạt động của Công ty: Thành viên HĐQT, bị mất tư cách trong trường hợp tự ý bỏ nhiệm sở 7 ngày liên tục trở lên; Giám đốc đương nhiên mất tư cách khi tự ý bỏ nhiệm nhiệm 7 ngày liên tục trở lên. Do vậy ông Hoàng Tân Cương đương nhiên không còn là thành viên HĐQT, Chủ tịch HĐQT và Giám đốc Công ty. Sau khi hết hạn cấm đảm nhiệm chức vụ, quyền hạn ông Cương không còn là người đại diện theo pháp luật của Công ty nữa. Việc Tòa án cấp sơ thẩm đưa ông Cương tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện theo pháp luật của Công ty là trái với điểm a, b khoản 1 Điều 115, điểm a khoản 1 Điều 110 Luật Doanh nghiệp.
Tại Văn bản số 10 ngày 13/3/2012, ông Trần Mạnh Linh (người được HĐQT Công ty bầu làm Chủ tịch HĐQT thay thế ông Hoàng Tân Cương nhưng không được Phòng đăng ký kinh doanh thuộc Sở kế hoạch đầu tư tỉnh công nhận) đã từ chối tham gia tố tụng với tư cách người đại diện Công ty. Căn cứ khoản 3 Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự quy định: Tòa án phải tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự khi có việc “Chấm dứt đại diện hợp pháp của đương sự mà chưa có người thay thế”. Tòa án cấp sơ thẩm không tạm đình chỉ giải quyết vụ án để yêu cầu Công ty Cổ phần chế biến nông sản thực phẩm kiện toàn tổ chức, bầu người đại diện theo pháp luật hợp pháp của Công ty là vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng.
Về thành phần tham gia tố tụng
Công ty TNHH Sao Việt Tuyên Quang ký hợp đồng thuê 1.070 m2 mặt bằng của Công ty thời hạn 15 năm, đã trả tiền thuê 10 năm. Diện tích đất nói trên đã được Công ty thế chấp cho các khoản vay tại Ngân hàng đầu tư. Việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi hợp pháp của Công ty Sao Việt. Tòa án cấp sơ thẩm không đưa Công ty Sao Việt tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là trái với quy định tại khoản 4 Điều 56 Bộ luật tố tụng dân sự, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Vụ thứ hai:
Ngày 16/01/2007 Công ty Vinausteel ký hợp đồng mua bán phôi thép số 01 với Công ty cổ phần kim khí Hưng Yên (nay là Công ty cổ phần luyện cán thép Sóc Sơn). Theo đó Công ty Vinausteel mua 2500 tấn phôi thép kích cỡ 130mmx130mmx6000mm, chất lượng 5SP/PS tiêu chuẩn GOST-94 đơn giá 7.400.000 đồng/tấn. Tổng giá trị hợp đồng tạm tính là 18.500.000.000 đồng. Thời hạn giao hàng hai bên thỏa thuận từ ngày 05/02/2007 đến ngày 15/02/2007. Nếu đến thời hạn giao hàng mà Công ty kim khí Hưng Yên (bên A) không giao hàng cho Công ty Vinausteel (bên B) ngoài trừ trường hợp bất khả kháng thì Công ty kim khí Hưng Yên phải chịu tiền phát 2% giá trị hợp đồng. Đồng thời bên A phải chuyển trả lại toàn bộ số tiền mà bên B đã thanh toán trước khi bên A giao hàng cộng lãi suất vay ngân hàng theo lãi suất vay ngân hàng bên B tính cho số tiền và số ngày trả trước là 1%/tháng cho số tiền đã trả trước của bên B tương ứng với số ngày bên A giao nhận hàng chậm.
Ngày 23/01/2007 hai bên ký kết Phụ lục hợp đồng số 02 với nội dung điều chỉnh thời hạn giao hàng từ 05/02/2007 đến 15/02/2007 sang ngày 10/03/2007 đến ngày 19/3/2007 Công ty Kim khí Hưng Yên phải giao hết hàng cho Công ty Vinausteel. Hai bên thỏa thuận về thời gian chịu lãi suất vay quá hạn được tính từ ngày 15/02/2007 đến ngày thực tế bên A giao hết hàng và các điều khoản khác vẫn giữ nguyên theo Hợp đồng kinh tế số 01 và Phụ lục hợp đồng số 02.
Trong thời hạn theo thỏa thuận hợp đồng, Công ty Vinausteel đã chuyển toàn bộ số tiền 18.500.000.000 đồng cho Công ty Cổ phần kim khí Hưng Yên nhưng Công ty cổ phần kim khí Hưng Yên đã không thực hiện đúng thỏa thuận việc giao hàng. Thực tứ từ ngày 12/3/2007 đến ngày 06/9/2007 Công ty cổ phần kim khí Hưng Yên mới giao 3 lần hàng với tổng 1.889,240 tấn thép kích cỡ 120mmx120mmx6000mm và 270,340 tấn thép loại 130mmx130mmx6000mm. Tổng số thép còn thiếu theo hợp đồng là 403,42 tấn loại 120mmx120mmx6000mm tương đương số tiền 2.890.961.900 đồng.
Công ty cổ phần kim khí Hưng Yên đã vi phạm về thời hạn và số lượng hàng giao mà hai bên đã thỏa thuận. Công ty Vinausteel đã nhiều lần gửi văn bản yêu cầu thực hiện hết nghĩa vụ giao hàng nhưng Công ty cổ phần kim khí Hưng Yên vẫn không thực hiện.
Bản án số 02 ngày 12/9/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh BN đã: chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Vinausteel buộc Công ty Cổ phần thép Sóc Sơn phải có trách nhiệm thanh toán cho Công ty Vinausteel số tiền 10.424.871.760 đồng.
Sau khi xét xử sơ thẩm, do có kháng cáo của nguyên đơn và bị đơn, vụ án được giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm đã hủy án sơ thẩm do việc xác minh, thu thập chứng cứ ở cấp sơ thẩm chưa đảm bảo.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm:
Tòa án cấp sơ thẩm xác định buộc Công ty cổ phần kim khí Hưng Yên trả cho Công ty Vinausteel số tiền 2.890.961.900 đồng là đúng. Nhưng khi tính tiền lãi do chậm thanh toán, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 306 Luật thương mại năm 2005 mà không lấy mức lãi suất quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán (xét xử sơ thẩm) để tính mà áp dụng mức lãi suất do các bên thỏa thuận (1,5%/tháng) là không đúng. Điều 306 Luật thương mại năm 2005 quy định: trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hoặc chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi suất trên số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoản thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Theo Phụ lục hợp đồng, thời hạn giao hàng cuối cùng ngày 19/3/2007 nên thời điểm chịu lãi suất cũng phải tính từ ngày 19/3/2007 chứ không phải ngày 15/2/2007 như Tòa án cấp sơ thẩm xác định.
Về số tiền bồi thường thiệt hại: Theo quy định tại khoản 3 Điều 297 Luật thương mại quy định: Trường hợp bên vi phạm không thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 297 thì bên bị vi phạm có quyền mua hàng, nhận cung ứng dịch vụ của người khác để thay thế theo đúng loại hàng hóa, dịch vụ ghi trong hợp đồng và bên vi phạm phải trả khoản tiền chênh lệch và các khoản phí liên quan. Trên cơ sở đó Công ty Vinausteel có quyền mua đúng loại hàng hóa của công ty khác để thay thế. Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm chỉ căn cứ Hợp đồng mua bán phôi thép mà Công ty Vinausteel ký với Công ty Hương Giang nhưng chưa làm rõ việc mua hàng này có đúng để bù vào số hàng thiếu mà Công ty cổ phần kim khí Hưng Yên không giao đủ không? Tòa án cấp sơ thẩm chưa yêu cầu Công ty Vinausteel cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh thiệt hại thực tế xảy ra trên cơ sở đó mới buộc Công ty cổ phần kim khí Hưng Yên bồi thường thiệt hại.
Việc đánh giá chứng cứ chưa toàn diện đầy đủ, chưa tìm ra sự liên quan giữa các chứng cứ để khẳng định giá trị pháp lý của mỗi chứng cứ là trái điều 96 Bộ luật tố tụng dân sự.
TH