CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

The Supreme People’s Procuracy of Viet Nam

Rút kinh nghiệm vụ án dân sự tranh chấp quyền sử dụng đất

21/08/2016
Cỡ chữ:   Tương phản
Vừa qua, VKSND tỉnh N ban hành thông báo rút kinh nghiệm vụ án Tranh chấp quyền sử đụng đất có vi phạm bị cấp phúc thẩm sửa án. Trang tin điện tử VKSND tối cao cao trích đăng để bạn đọc tham khảo...

 Rút kinh nghiệm vụ án dân sự tranh chấp quyền sử dụng đất 

Vừa qua, VKSND tỉnh N ban hành thông báo rút kinh nghiệm vụ án Tranh chấp quyền sử đụng đất có vi phạm bị cấp phúc thẩm sửa án. Trang tin điện tử VKSND tối cao cao trích đăng để bạn đọc tham khảo:
Nội dung vụ án: Nguyên đơn bà Trần Thị Q, bị đơn ông Nguyễn Đình C, bà Trần Thị Ch, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: chị Trần Thị Tuyết M, anh Trần Hoàng A. Theo đơn khởi kiện và trình bày của nguyên đơn thì ông M và bà Q được nhà nước cấp 1 số ruộng trong đó có 720m2 thửa 79/19 và 131 mthửa 8/1 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử đụng đất. Ông M và bà Q cho con trai là anh Đ mượn để trồng cấy. Năm 2005 anh Đ bán cho vợ chồng anh C chị Ch 2 thửa ruộng trên (chỉ làm giấy viết tay). Sau khi anh Đ bán được vài tháng gia đình bà đã đến nói với vợ chồng anh C chuộc lại nhưng vợ chồng anh C không đồng ý. Gia đình bà đã đề nghị Ủy ban nhân dân xã nhưng không được giải quyết. Nay bà đề nghị Tòa án hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh Đ và vợ chồng anh C chị Ch. Gia đình bà sẽ trả lại vợ chồng anh C số tiền anh C trả nợ ngân hàng chính sách thay cho anh Đ.
Về phía anh C chị Ch trình bày: Khi anh Đ đề nghị vợ chồng anh mua số ruộng trên vợ chồng anh đã thông báo cho gia đình anh Đ là bà Q biết. Nhưng gia đình bà Q nói là gia đình bà nhiều ruộng nên không mua ruộng của anh Đ, gia đình anh có mua thì mua. Vợ chồng anh đồng ý mua và đã trả tiền đầy đủ. Khi ra xã làm thủ thụ thì anh Đ còn nợ ngân hàng chính sách 3.435.000 đồng anh Đ không có tiền trả. Vợ chồng anh lại phải trả thay cho anh Đ để làm thủ tục nhưng khi trả nợ xong cho anh Đ bà Q không đưa sổ đỏ để làm thủ tục. Nay vợ chồng anh không đồng ý trả ruộng cho gia đình bà Q.
Ủy ban nhân dân xã cung cấp: Anh Đ là con ông M bà Q. Anh Đ được cấp ruộng cùng hộ ông M bà Q từ năm 1993, được cấp bổ sung năm 1998. Theo tờ khai đất được cấp  sử dụng là 4.519m2 . Hộ ông M có 5 khẩu là ông M, bà Q, chị M, anh Đ, chị H. Hai thửa 79/19 và 8/1 đều chia được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 1999 hộ ông M tách 2 thửa đất trên cho anh Đ theo tiêu chuẩn được cấp. Từ năm 1999 anh Đ sử dụng và nộp thuế. Năm 2005 anh Đ chuyển nhượng 2 thửa đất trên cho vợ chồng anh C chị Ch có ra xã làm thủ tục nhưng chưa hoàn thiện vì chưa đủ điều kiện.
Kết quả giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm:
Tại bản án dân sự sơ thẩm ngày 17/11/2015 của Tòa án nhân dân huyện đã quyết định: Bác đơn yêu cầu của bà Q về việc yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh Đ và vợ chồng anh C chị Ch. Anh C chị Ch được quyền sử dụng thửa đất 79/19 diện tích 720m2 thửa 79/19 và thửa đất 8/1 diện tích 131 m… Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo, quyền yêu cầu thi hành án cho các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm anh C chị Ch kháng cáo không nhất trí án sơ thẩm. Ngày 29/7/2016 Tòa án nhân dân tỉnh N đã xét xử phúc thẩm và quyết định sửa án sơ thẩm, chấp nhận thỏa thuận của các đương sự…
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm:
Trong hồ sơ vụ án thể hiện quyết định phân công số 38 ngày 08/5/2015 của Tòa án nhân dân huyện có nội dung: Phân công thẩm phán ông Bùi Văn H giải quyết vụ án; phân công thư ký ông Nguyễn Văn D tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án trên.
Tuy nhiên tại biên bản phiên tòa ngày 17/11/2015 thể hiện thư ký ghi biên bản phiên tòa ông Nguyễn Văn D và ông Trần Quang H. Tại bản án sơ thẩm cũng thể hiện thư ký phiên tòa là ông Nguyễn Văn D và ông Trần Quang H. Như vậy ông Nguyễn Quang H không được phân công tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án trên nhưng lại ghi biên bản phiên tòa với tư cách là thư ký là vi phạm Điều 40, 43 Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 (nay là Điều 47, 51 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015).
Biên bản giao nhận thông báo thụ lý không ghi ngày nào chỉ ghi tháng 5 năm 2015 là không đầy đủ, vi phạm về hình thức văn bản.
Biên bản định giá tài sản ngày 21/9/2015 không ghi chức vụ của các thành viên tham gia hội đồng định giá, chỉ ghi đơn vị công tác. Ngoài ra cũng không thể hiện rõ định giá tài sản đang tranh chấp trong vụ án nào, nguyên đơn, bị đơn là ai, ở đâu, định giá tài sản tại địa điểm nào….
TT
Tìm kiếm