Vừa qua, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang đã xét xử phúc thẩm vụ án Lý Văn Nguyên cùng đồng bọn, phạm tội “Trộm cắp tài sản” do Viện kiểm sát tỉnh kháng nghị theo trình tự phúc thẩm. Thông qua vụ án này, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang thấy cần thông báo để Viện kiểm sát nhân dân các huyện, thành phố rút kinh nghiệm chung trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử án hình sự như sau:...
Rút kinh nghiệm vụ án hình sự VKS kháng nghị yêu cầu hủy án
Vừa qua, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang đã xét xử phúc thẩm vụ án Lý Văn Nguyên cùng đồng bọn, phạm tội “Trộm cắp tài sản” do Viện kiểm sát tỉnh kháng nghị theo trình tự phúc thẩm. Thông qua vụ án này, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang thấy cần thông báo để Viện kiểm sát nhân dân các huyện, thành phố rút kinh nghiệm chung trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử án hình sự như sau:
Nội dung vụ án
Trong khoảng thời gian từ tháng 5/2014 đến ngày 18/01/2015 Lý Văn Nguyên, SN: 21/03/1997 và Nông Văn Kết, SN: 16/11/1997 đã nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản trên địa bàn trong tỉnh, cụ thể như sau:
Lần 1: Khoảng đầu tháng 5/2014 (không nhớ rõ ngày) Nông Văn Kết một mình lấy trộm một chiếc xe máy, nhãn hiệu BOS, màu sơn nâu; BKS 23C5 - 00243 (đã qua sử dụng) trị giá 2.150.000 đ của anh Đặng Văn Cơ, sau đó bán cho anh Nông Văn Hưng với giá 800.000 đ. Kết đã tiêu sài cá nhân hết.
Lần 2: Khoảng đầu tháng 01/2015 (không nhớ ngày) Lý Văn Nguyên một mình trộm cắp 01 chiếc điện thoại nắp trượt màu hồng nhãn hiệu NOKIA trị giá 1.100.000 đ của anh Hà Minh Tuấn, sau khi trộm cắp, Nguyên mang về sử dụng được khoảng hai tuần thì bị rơi mất.
Lần 3: Khoảng giữa tháng 1 năm 2015 (không nhớ ngày) Nguyên lấy trộm 01 chiếc xe máy nhãn hiệu SUZUKI Viva trị giá 1.600.000VNĐ của anh Tống Văn Đăng đem đi bán cho ông Dương Văn Toàn với giá 2.000.000 đ.
Lần 4: Khoảng 01 giờ sáng ngày 16/01/2015 Nguyên rủ Kết cùng nhau trộm cắp 01 máy tính sách tay hiệu ASUS - K45A, 01 dây sạc theo máy, của chị Tống Thị Phương Nhung trị giá 8.600.000 đ sau đó bị mất
Lần 5: Khoảng 01 giờ sáng ngày 18/01/2015 Kết rủ Nguyên cùng nhau trộm cắp 01 chiếc máy tính HPPROBOO K4530S máy vi tính trị giá 3.690.000 đ của anh Đỗ Văn Cảnh, sau đó bán cho anh Hoàng Văn Mành với giá 1.500.000đ. Trong quá trình trao đổi mua bán anh Mành không biết tài sản chiếc máy tính đó là do trộm cắp mà có.
Lần 6: Nguyên trộm cắp của anh Đỗ Văn Cảnh 01 điện thoại di động Nokia loại đen trắng vỏ màu đỏ trị giá 100.000đ (không có kết luận định giá tài sản đối với chiếc điện thoại này, trong phần cáo trạng không đề cập nội dung, bản án lại nhận định là Lý Văn Nguyên trộm cắp tài sản nhưng không đề cập xử lý).
Quá trình điều tra, truy tố, xét xử ở cấp sơ thẩm, Nguyên và Kết đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của mình, lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của các bị hại, cùng các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án.
Cấp sơ thẩm đã điều tra, truy tố xét xử đối với Nông Văn Kết ở lần phạm tội “Lần 1” (được nêu tại phần nội dung vụ án) với số tiền 2.150.000đ ; Đối với Lý Văn Nguyên và Nông Văn Kết các lần phạm tội “Lần 4” với số tiền 8.600.000đ và “Lần 5” với số tiền 3.690.000đ .
Ngoài ra, đối với lần trộm cắp tài sản “Lần 2” và “Lần 3” do xác định số tiền trộm cắp tài sản chưa đủ mức khởi điểm để truy tố, xét xử nên cơ quan điều tra đã xử lý vi phạm hành chính đối với Nguyên, ở lần trộm cắp “Lần 6” Nguyên trộm cắp của anh Đỗ Văn Cảnh 01 chiếc điện thoại đã không được định giá tài sản, không xử lý vi phạm hành chính, không đề cập xử lý đối với hành vi này..
Bản án hình sự sơ thẩm số: 09/2015/HSST ngày 12/08/2015 của TAND huyện đã tuyên Lý Văn Nguyên, Nông Văn Kết phạm tội “Trộm cắp tài sản”
- Áp dụng: Khoản 1 Điều 138, p khoản 1, Điều 46 BLHS, điểm g khoản 1 điều 48 BLHS“Phạm tội nhiều lần” . Xử phạt bị cáo Lý Văn Nguyên 14 tháng 21 ngày tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam lần 2 ngày 12/05/2015.
- Áp dụng: khoản 1 điều 138, điểm p khoản 1 điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48, Điều 69 và khoản 1 điều 74 BLHS. Xử phạt bị cáo Nông Văn Kết 11 tháng 21 ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại thụ hình.
Ngoài ra Bản án còn tuyên về phần dân sự, xử lý vật chứng, phần án phí và quyền kháng cáo của các bên.
Sai sót của cấp sơ thẩm và vấn đề cần rút kinh nghiệm
Việc xác định tư cách tham gia tố tụng trong bản án có sai sót làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng như:
Đầu tháng 1/2015 Nguyên trộm cắp của anh Hà Minh Tuấn 01 điện thoại trị giá 1.100.000,đ; Giữa tháng 1/2015 Nguyên trộm cắp của anh Tống Văn Bình 01 xe máy trị giá 1.600.000 đ Cơ quan công an huyện đã xử lý vi phạm hành chính đối với Nguyên về hai hành vi trộm cắp trên, tuy nhiên trong bản án lại xác định anh Tuấn và Bình là bị hại trong vụ án là không đúng theo qui định của Điều 51 BLTTHS.
Khoảng đầu tháng 5/2014 Kết trộm cắp một chiếc xe máy của anh Đặng Văn Cơ và đem đi bán cho anh Nông Văn Hưng với giá 800.000,đ.Căn cứ theo Điều 54 BLTTHS thì anh Hưng là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Tuy nhiên trong bản án lại xác định anh Hưng là nhân chứng trong vụ án là xác định sai tư cách tham gia tố tụng, vi phạm Điều 54, 55 BLTTHS năm 2003.
Đối với “Lần 6” Nguyên trộm cắp của anh Đỗ Văn Cảnh 01 chiếc điện thoại đã không được định giá tài sản, không xử lý vi phạm hành chính là giải quyết không triệt để trong vụ án.
Đối với việc xác định tuổi của bị cáo để áp dụng chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội.
Tính đến thời điểm thực hiện hành vi phạm tội Lý Văn Nguyên (SN: 21/03/1997, trộm cắp ngày 15/01/2015) được 17 tuổi 09 tháng 06 ngày. Tuy nhiên trong quá trình áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là người chưa thành niên phạm tội cả Viện kiểm sát huyện và Hội đồng xét xử sơ thẩm đã không áp dụng Điều 69 BLHS “Nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội” và khoản 1 Điều 74 BLHS để căn nhắc mức án đối với bị cáo Nguyên là vi phạm nghiêm trọng BLHS.
Tính đến thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo Kết được 17 tuổi 29 ngày. Nhưng tại phần “Xét thấy” của bản án lại nêu “...Đối với bị cáo Kết đến ngày xét xử, bị cáo Kết là người chưa thành niên áp dụng Điều 69, và khoản 1 Điều 74 BLHS” là sai về lý luận của khi áp dụng Điều luật.
Vi phạm Điều 33 BLHS qui định về tù có thời hạn. Trong biên bản nghị án (BL 443, 443) đã nêu “...Lý Văn Nguyên 15 tháng tù được khấu trừ thời hạn tạm giam trước 09 ngày, thời hạn tù được tính từ ngày bị bắt lần 2 ngày 12/05/2015... Nông Văn Kết 12 tháng tù được khấu trừ thời hạn tạm giam trước 09 ngày, thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo vào trại thụ hình”.
Nhưng trong bản án lại thể hiện: Bị cáo Nguyên bị bắt ngày 03/02/2015, tại ngoại ngày 12/02/2015 (09 ngày) tạm giam ngày 13/05/2015 đến nay, trong phần Quyết định của bản án nêu “Xử phạt bị cáo Lý Văn Nguyên 14 tháng 21 ngày tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt lần 2, ngày 12/05/2015” mà không ghi nhận giống biên bản nghị án và thực tế không khấu trừ thời hạn tạm giữ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù được ghi trong phần Quyết định của bản án và tính thời hạn tù bắt đầu kể từ ngày 12/05/2015 là không đúng, bởi Nguyên bị bắt lần 2 là ngày 13/05/2015. Bị cáo Kết bị bắt ngày 03/02/2015, tại ngoại ngày 12/02/2015 (09 ngày) nhưng phần quyết định hình phạt đối với Kết cũng không được khấu trừ thời hạn tạm giữ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù.
Số lần bị cáo Nguyên thực hiện hành vi trộm cắp tài sản đã được Viện kiểm sát truy tố và Hội đồng xét xử xử là 3 lần, trong đó hai lần thực hiện hành vi cùng bị cáo Kết, một lần bị cáo tự thực hiện nhưng trong phần “xét thấy” của bản án lại nêu “Bị cáo Nguyên tham gia trộm cắp tài sản 5 lần” là không chính xác.
TH