CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

The Supreme People’s Procuracy of Viet Nam

Rút kinh nghiệm vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất và đòi lại tài sản

18/08/2016
Cỡ chữ:   Tương phản
Qua công tác kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án dân sự có vi phạm nghiêm trọng về tố tụng và nội dung, VKSND tỉnh Đ ban hành thông báo rút kinh nghiệm đến các đơn vị trong tỉnh. Trang tin điện tử VKSND tối cao trích đăng để bạn đọc tham khảo...

 Rút kinh nghiệm vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất và đòi lại tài sản 

Qua công tác kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án dân sự có vi phạm nghiêm trọng về tố tụng và nội dung, VKSND tỉnh Đ ban hành thông báo rút kinh nghiệm đến các đơn vị trong tỉnh. Trang tin điện tử VKSND tối cao trích đăng để bạn đọc tham khảo:
Nội dung vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất và đòi lại tài sản giữa nguyên đơn bà Lê Thị V, các đồng nguyên đơn: Vương Hồng Nh, Vương Thị Ngọc T, Vương Hồng H, Vương Hồng Ph, Vương Ngọc D, Vương Hồng T, Vương Thị Ngọc T và Vương Thị Ngọc T. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nguyên đơn là luật sư Lê Hồng Đ. Bị đơn bà Vương Thị H; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn là luật sư Xuân H. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có 4 người trong đó có UBND thị xã H.
Nguồn gốc đất là của ông bà nội anh Nh là ông Vương Văn H  (chết ngày 09/02/1979) và bà nội là bà Nguyễn Thị Ch (chết năm nào không biết). ông H và bà Ch sinh được ông Vương Văn Ph (sinh ngày 25/5/1923, chết ngày 15/3/2004). Sau khi bà Ch chết thì ông H lấy bà Ca Thị H, sinh năm 1904, chết ngày 23/7/1985. Ông H và bà Ca Thị H sinh được 2 người con là Vương Thị Ng, sinh năm 1942, chết ngày 15/01/1985 và bà Vương Thị H , sinh năm 1945. Các nguyên đơn cho rằng, ông bà nội có tạo dựng được một số đất ruộng và đất vườn có chiều ngang 24m và dài 100 m khi chết thì không để lại di chúc.
Vào ngày 16/10/1995 ông Vương Văn Ph, bà Vương Thị Ng và bà Vương Thị H lập tờ thuận phân, bà Ng được hưởng diện tích có chiều ngang là 24m và chiều dài là 35,1m từ lộ làng trở vào. Ông Ph, bà H được hưởng diện tích có chiều ngang là 24m và dài 64,9m. Phần đất của ông Ph được chia, tạm giao cho bà H quản lý, khi nào cần thì bà H giao lại. Trong quá trình sử dụng đất, bà H đi kê khai đăng ký và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Còn phần đất ruộng có diện tích là 3000m2, các nguyên đơn cho rằng nguồn gốc đất là của ông Vương Văn K cho ông Vương Văn Ph, ông Ph chỉ sử dụng đến năm 2000, ông Ph về đám rỗ, bà H hỏi mua, ông Ph bán cho bà H, giá 20 chỉ vàng 24kara. Bà H mới trả được 10 chỉ, việc ông Ph bán đất cho bà H có ông K, ông L, ông H, bà Ph biết.
Nay, các nguyên đơn yêu cầu ông bà H phải trả đất thổ có chiều ngang là 12m và dài 56,8m (theo trích đo ngày 21/3/2012 của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thị xã Hồng Ngự) và yêu cầu bà H phải trả 10 chỉ vàng 24 kara.
Trên phần đất, bà H có xây dựng hàng rào, trồng cây, các nguyên đơn đồng ý bồi hoàn giá trị cho bà H, theo giá của Hội đồng định giá là 51.414.784 đồng, để được sử dụng các vật kiến trúc và cây trồng có trên đất.
Bị đơn cho rằng, nguồn gốc đất là của cha mẹ, khi cha mẹ mất thì để cho bà từ năm 1985. Vì bà là con út sống chung với cha mẹ từ nhỏ đến lớn, phụng dưỡng cha mẹ, nên được cha mẹ để lại phần đất trên sử dụng ổn định. Ngày 22/3/2000, bà được UBND huyện H (nay là thị xã H) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nay các nguyên đơn yêu cầu trả diện tích đất ngang 12m x dài 56,8m và 10 chỉ vàng. Bà  H không đồng ý và bà không có mua đất của ông Ph. Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 11/12/2015, bà H ủy quyền cho chị Đ, thừa nhận chữ ký trong tờ thuận phân ngày 16/10/1995 là của bà Vương Thị H, khi cha mẹ để đất lại cho bà H không có làm giấy tờ.
Tờ thuận phân ngày 16/10/1995 có nội dung “kể từ nay trở đi anh em tôi thống nhất phần của ai được chia người đó hưởng, đất đai ông bà để lại thì con cái chung hưởng không ai có quyền được bán lại, không có quyền được xua đuổi”.
Tại quyết định bản án sơ thẩm ngày 018/2014 của Tòa án nhân dân thị xã H đã: chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc hộ bà Vương Thị H, ông Võ Huy V trả lại cho bà Lê Thị V, ông Vương Hồng Th, bà Vương Thị Ngọc T, bà Vương Thị Ngọc Tr, bà Vương Ngọc D, bà Vương Thị Ngọc Tr, ông Vương Hồng Ph, ông Vương Hồng H, ông Vương Hồng Nh diện tích đất ngang 12m dài 56,8m. Bà Lê Thị V, ông Vương Hồng Th, bà Vương Thị Ngọc T, bà Vương Thị Ngọc Tr, bà Vương Ngọc D, bà Vương Thị Ngọc Tr, ông Vương Hồng Ph, ông Vương Hồng H, ông Vương Hồng Nh có nghĩa vụ bồi hoàn giá trị các cây trồng trên đất và hàng rào lưới B40 cho bà Vương Thị H, tổng số tiền là 51.414.784 đồng. Hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử đụng dất của hộ bà Vương Thị H, diện tich là 1.427m2 . Bà Lê Thị V, ông Vương Hồng Th, bà Vương Thị Ngọc T, bà Vương Thị Ngọc Tr, bà Vương Ngọc D, bà Vương Thị Ngọc Tr, ông Vương Hồng Ph, ông Vương Hồng H, ông Vương Hồng Nh và hộ bà Vương H đến có quan có thẩm quyền làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Chấp nhận các yêu cầu của nguyên đơn: Buộc bà Vương Thị H trả lại cho bà Lê Thị V, ông Vương Hồng Th, bà Vương Thị Ngọc T, bà Vương Thị Ngọc Tr, bà Vương Ngọc D, bà Vương Thị Ngọc Tr, ông Vương Hồng Ph, ông Vương Hồng H, ông Vương Hồng Nh 10 chỉ vàng 24kara.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, thời hạn, quyền kháng cáo và quyền, nghĩa vụ thời hiệu thi hành án của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 08/8/2014 bà Vương Thị H kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết bác toàn bộ yêu cầu của các nguyên đơn.
Ngày 28/8/2014, Viện trưởng VKSND tỉnh kháng nghị bản án dân sự sơ thẩm trên, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết theo thủ tục chung.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm:
Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm về tố tụng và cả nội dung như: thụ lý trước ngày nguyên đơn nộp đơn khởi kiện, không có bút phê của Chánh án phân công Thẩm phán giải quyết vụ án, Tòa án chưa thu thập đầy đủ chứng cứ, không thông báo cho bị đơn nộp tiền tạm ứng án phí khi có yêu cầu phản tố.
Tòa án chấp nhận cho nguyên đơn được sử dụng hàng rào và các cây trồng trên đất và trả giá trị bồi hoàn lại cho bị đơn nhưng không giao các tài sản này cho ai.
Trong sơ đồ đo đạc ngày 21/3/2012 diện tích đất là 656m2 , trong bản án Tòa án tuyên cho nguyên đơn diện tích đất là 681,m2, số đo giữa sơ đồ đo đạc và bản án là không khớp nhau, sơ đồ đo đạc không có mốc gửi. Trên đất tranh chấp có một căn nhà của vợ chồng anh T, xây dựng năm 2002, anh T xác định họ và tên là Vũ Ngọc T, trong sơ đồ lại ghi là Vương Ngọc T.
Tòa chưa làm rõ nếu giao đất cho các nguyên đơn hay giao đất cho bà H thì phần đất đối với vợ chồng anh T đang ở cũng phải được làm rõ và tuyên trong bản án cụ thể.
Đối với đất ruộng, nguyên đơn cho rằng năm 2000, ông Ph bán cho bà H 3000m2  giá 20 chỉ vàng 24kara, đã trả 10 chỉ còn lại 10. Theo Giấy nộp sản phẩm hè thu năm 1988, bà H sử dụng diện tích 4 công, số lúa phải nộp là 267 kg. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn nhưng chưa thu thập đầy đủ các chứng cứ.
Do bản án sơ thẩm vi phạm về tố tụng và nội dung, do ở cấp phúc thẩm không thể khắc phục được nên Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng VKSND tỉnh, hủy bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thị xã H, chuyển hồ sơ về Tòa án sơ thẩm giải quyết lại vụ án.
TT
Tìm kiếm