Qua công tác kiểm sát thi hành án dân sự và theo dõi công tác kiểm sát thi hành án dân sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng ban hành thông báo rút kinh nghiệm gửi VKSND cấp huyện. Trang tin điện tử VKSND tối cao trích đăng nội dung để bạn đọc tham khảo...
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng rút kinh nghiệm công tác kiểm sát thi hành án dân sự
Qua công tác kiểm sát thi hành án dân sự và theo dõi công tác kiểm sát thi hành án dân sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng ban hành thông báo rút kinh nghiệm gửi VKSND cấp huyện. Trang tin điện tử VKSND tối cao trích đăng nội dung để bạn đọc tham khảo.
Vi phạm thời hạn ra quyết định ủy thác thi hành án, thời hạn chậm ra các quyết định từ trên 2 năm đến trên 5 năm, vi phạm Khoản 3 Điều 55 Luật THADS năm 2014. (có 3 quyết định). Điển hình:Quyết định thi hành án số 98/QĐ-THA, ngày 10/7/2008 cho thi hành khoản: Bà Mã Thị Loan, trú tại số 6/1C Tân Hóa, phường 1, Quận 11, TPHCM phải nộp án phí dân sự sơ thẩm 2.464.800 đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 1.500.000 đồng theo biên lai thu số 5011 ngày 12/12/2003 của Cơ quan THADS thành phố Sóc Trăng, số tiền còn lại phải nộp là 964.800 đồng.
Đến ngày 13/10/2010, bà Mã Thị Loan nộp số tiền án phí 964.800 đồng cho Cục THADS tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, ngày 14/10/2010 là ngày xác định có căn cứ để ủy thác cho Chi cục THADS thành phố Sóc Trăng khoản bà Mã Thị Loan phải nộp án phí dân sự sơ thẩm 1.500.000 đ nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 1.500.000 đồng theo biên lai thu số 5011 ngày 12/12/2003 của Cơ quan THADS thành phố Sóc Trăng. Lẽ ra, trong thời hạn 05 ngày làm việc (từ ngày 14/10/2010-20/10/2010) Cục THADS phải ra Quyết định ủy thác nhưng đến ngày 06/7/2016 Cục THADS mới ra Quyết định về việc ủy thác THA cho Chi cục THADS thành phố Sóc Trăng. Như vậy Cục THADS ra Quyết định về việc ủy thác thi hành án chậm 05 năm 08 tháng.
Để kiểm sát quyết định thi hành án, Kiểm sát viên cần nghiên cứu và vận dụng Điều 55, 56, 57 Luật thi hành án dân sự và Điều 16 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự. Bên cạnh đó, Kiểm sát viên cần kiểm sát thời hạn ra quyết định ủy thác và tùy theo từng hồ sơ, tài liệu việc ủy thác thi hành án mà xác định thời gian có căn cứ ủy thác, từ đó áp dụng Khoản 3 Điều 55 Luật thi hành án dân sự để xác định cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định ủy thác thi hành án dân sự đúng thời hạn hay không.
Tiến hành kiểm sát hồ sơ thi hành án giữa ông Trịnh Thanh Bồng (người được THA) và bà Lâm Thị Kim Ngân (người phải THA) do Chi cục THADS huyện Mỹ Tú thụ lý, giải quyết, VKSND tỉnh phát hiện trong quá trình tổ chức thi hành án, Chi cục THADS huyện Mỹ Tú để xảy ra một số vi phạm sau:
Theo Quyết định số 01/2010/QĐST-DS ngày 04 tháng 01 năm 2010 của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự: Nguyên đơn là ông Trịnh Thanh Bồng, địa chỉ số 934A/47 khóm Bình Đức 2, phường Bình Đức, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang; bị đơn là bà Lâm Thị Kim Ngân, địa chỉ số 233/6 đường 30/4, phường Hưng Lợi, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.
Sự thỏa thuận của các đương sự cụ thể như sau: “ Bà Lâm Thị Kim Ngân có trách nhiệm trả cho ông Trịnh Thanh Bồng số tiền 270.000.000 đồng. Lãi suất phát sinh tính từ ngày 05 tháng 01 năm 2009 đến ngày 05/12/2009 là 17.226.000 đồng. Tổng cộng bà Ngân phải trả cho ông Bồng số tiền 287.226.000 đồng.
Về thời gian và cách trả các bên thống nhất giải quyết tại Chi cục thi hành án dân sự quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.
Về án phí bà Lâm Thị Kim Ngân chịu 3.500.000 đồng, có xem xét đơn xin giảm án phí của bà Ngân.
Ông Trịnh Thanh Bồng được nhận lại tiền tạm ứng án phí theo phiếu thu số 002606 ngày 21/7/2009.
Trong trường hợp bà Ngân chậm trả tiền thì còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tính theo lãi suất cơ bản do ngân hàng nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.”
Ngày 02/2/2010 Chi cục thi hành án dân sự quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ ra Quyết định thi hành án số 623/QĐ-THA buộc “Bà Lâm Thị Kim Ngân có trách nhiệm trả cho ông Trịnh Thanh Bồng có số tiền 270.000.000 đồng. Lãi suất phát sinh tính từ ngày 05/01/2009 đến ngày 05/12/2009 là 17.226.000 đồng. Tổng cộng bà Ngân phải trả cho ông Bồng số tiền 287.226.000 đồng”.
Trong quá trình tổ chức thi hành án, ngày 01/3/2010, Chi cục thi hành án dân sự quận Ninh Kiều tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của bà Ngân, biên bản xác minh thể hiện: Căn nhà số 233/6 đường 30/4 phường Hưng Lợi, quận Ninh Kiều đã bị giải tỏa, hiện nay bà Ngân đi đâu, làm gì địa phương không rõ. Nên ngày 10/3/2010 Chi cục thi hành án dân sự quận Ninh Kiều ra quyết định ủy thác thi hành án số 44/QĐ-THA cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng.
Nhận được quyết định ủy thác thi hành án, Chi cục thi hành án dân sự huyện Mỹ Tú ra Quyết định thi hành án số 30/QĐ- THA, ngày 20/4/2010. Sau khi tiến hành xác minh điều kiện thi hành án, Chi cục thi hành án dân sự huyện Mỹ Tú ra Quyết định thi hành án số 03/QĐ-CCTHA ngày 17/9/2012 về việc cưỡng chế kế biên Quyền sử dụng đất thửa số 379, tờ bản đồ số 01, diện tích 9.427m2 do bà Lâm Thị Kim Ngân đứng lên, tọa lạc tại ấp Mỹ Lợi C, xã Mỹ Tú, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng và tiến hành tổ chức cưỡng chế kê biên ngày 27/9/2012. Trong quá trình tổ chức kê biên Chấp hành viên phát hiện phần đất kê biên này hiện không thông báo cho ông Thắng khởi kiện ra Tòa để được giải quyết theo quy định của pháp luật mà để kéo dài đến ngày 11/8/2015 mới tiến hành xác minh lại để tiếp tục giải quyết. Như vậy, Chi cục thi hành án dân sự huyện Mỹ Tú chưa thực hiện đúng quy định tại Khoản 1 Điều 39 Luật thi hành án dân sự năm 2014.
Đến ngày 08 tháng 6 năm 2016 Chấp hành viên ra Quyết định số 09/QĐ-CCTHADS về việc cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Nội dung: “Cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất của Lâm Thị Kim Ngân, trú tại số 233/6, đường 30/4, phường Hưng Lợi, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.
Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất bị kê bên gồm: Một phần đất thửa số 379, tờ bản đồ số 01 tại ấp Mỹ Lợi C, xã Mỹ Tú, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng, do UBND huyện cấp ngày 31/3/2006 và cây trồng, tài sản trên đất”.
Tuy nhiên, khi tiến hành cưỡng chế kê biên Chấp hành viên không thực hiện theo đúng nội dung của Quyết định cưỡng chế kê biên số 09/QĐ-CCTHA, ngày 08/6/2016, cụ thể: Quyết định cưỡng chế kê biên chỉ nêu kê biên một phần đất thửa số 379 nhưng trong biên bản kê biên ngày 12/7/2016 thì lại tiến hành kê biên toàn bộ diện tích đất của thửa 379 với tổng diện tích 9.479,7 m2 (chưa trừ lộ giới).
Trong quyết định cưỡng chế kê biên có nêu: Kê biên cây trồng và tài sản trên đất nhưng phần cuối của biên bản kê biên lại ghi “…tất cả tài sản nhà, vật kiến trúc cây trồng trên đất của ông Lê Văn Thắng và ông Lê Văn Giảng chúng tôi không có kê biên”. Việc Chấp hành viên kê biên toàn bộ diện tích đất và không kê biên tài sản trên đất là không đúng theo nội dung của Quyết định cưỡng chế kê biên số 09/QĐ-CCTHADS, đã làm thay đổi nội dung vụ việc ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự. Như vậy, Chấp hành viên chưa thực hiện đúng theo quy định tại khoản 2 Điều 20 Luật thi hành án dân sự năm 2014 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên.
Trong quá trình kiểm sát quyết định thi hành án số 03/QĐ-CCTHA, ngày 17/9/2012 về việc cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất thửa 397, tờ bản đồ số 01, diện tích 9.427 m2 do bà Lâm Thị Kim Ngân đứng tên, Kiểm sát viên không nghiên cứu kỹ tài liệu có trong hồ sơ và các quy định của pháp luật nên không phát hiện những thiếu sót của Chấp hành viên như: Không thông báo cho ông Thắng khởi kiện ra Tòa để được giải quyết theo quy định của pháp luật; không thông báo cho bà Lâm Thị Kim Ngân (người phải thi hành án) về Quyết định thu hồi số 24/QĐ-CCTHA ngày 17/9/2015; việc cưỡng chế không đúng với nội dung quyết định cưỡng chế kê biên số 09/QĐ-CCTHA ngày 08/6/2016.
Quá trình kiểm sát những việc tương tự như trên, Kiểm sát viên cần lưu ý khi nhận được Quyết định cưỡng chế thi hành án, Kiểm sát viên yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự cung cấp hồ sơ để kiểm sát và lập hồ sơ kiểm sát. Quá trình kiểm sát phải căn cứ vào các quy định của pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục… tổ chức cưỡng chế thi hành án quy định tại các Điều 39, 44, 45, 46; Điều 70 đến Điều 75 Luật thi hành án dân sự; Điều 12, 13, 24… Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự, nếu phát hiện hồ sơ có vi phạm thì Kiểm sát viên đề xuất, báo cáo lãnh đạo Viện để yêu cầu Chấp hành viên làm rõ hoặc kiến nghị, kháng nghị.